phong cách văn học

Ba loại ghế: ghế công thái học vs ghế gaming vs ghế văn phòng thật ra có đặc điểm, tác dụng và ưu điểm riêng. Trong mỗi loại như vậy lại chia thành nhiều hãng. Từng hãng lại chọn cho mình phân khúc, phong cách, định hướng khác nhau nên sẽ chia thành nhiều dòng nhỏ. Trung Tâm Tin Học, tin học văn phòng, tin học thường thức, học tin học online, đào tạo tin học trực tuyến, Tin học và đời số Bài này mình sẽ hướng dẫn các bạn cách sử dụng ký hiệu toán học và cách đánh công thức toán trên Facebook. Mình chia làm hai trường hợp. Đó Văn hóa - Giáo dục. Văn hóa. Giáo dục. Thể thao. Nghiệp vụ. Đề án số hóa truyền hình. Văn bản mới. Khoa học - Đời sống. Chuyển đổi số_ cơ hội và thách thức 11-9 Phóng sự: Biểu dương các điển hình trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Cách chơi. Hình ảnh văn phòng, lớp/trường được chụp ảnh lại, đưa vào phần mềm cắt ghép, chỉnh sửa 10 chi tiết khác nhau. Tiếp theo, bạn đặt 2 bức ảnh gốc và biến thể song song với nhau. Đặt câu đố cho mọi người trong công ty/lớp học cùng tìm nhé. kenapa hp oppo a3s tiba tiba mati total. Phong cách học tiếng Anh stylistics là một nhánh của ngôn ngữ học ứng dụng, là môn khoa học nghiên cứu và giải thích các tất cả các loại văn bản hoặc có khi là ngôn ngữ nói, về mặt phong cách ngôn ngữ và âm điệu. Phong cách ở đây là sự đa dạng của ngôn ngữ được sử dụng bởi các cá nhân khác nhau hay trong các tình huống và ngữ cảnh khác nhau. Chẳng hạn, ngôn ngữ hàng ngày suồng sã được dùng giữa những người bạn với nhau, trong khi ngôn ngữ trang trọng hơn về mặt ngữ pháp, phát âm hoặc ngữ điệu, từ vựng thường được sử dụng trong thư xin việc, sơ yếu lý lịch, phỏng vấn việc làm,... Phong cách học liên kết phê bình văn học với ngôn ngữ học. Bản thân môn này không phải là một lĩnh vực đứng riêng một mình mà có thể giúp hiểu văn học, báo chí cũng như ngôn ngữ học.[1][2][3] Nguồn nghiên cứu của phong cách học là các tác phẩm kinh điển đến các văn bản phổ thông, và từ mẩu tin quảng cáo đến đoạn tin tức,[4] văn bản phi hư cấu, văn hóa đại chúng, nghị luận chính trị và tôn giáo.[5] Phong cách học có thể cố gắng thiết lập các nguyên lý nhằm giải thích những lựa chọn cụ thể của cá nhân và nhóm xã hội khi họ sử dụng ngôn ngữ, như trong việc sáng tác văn chương và tiếp nhận thể loại, nghiên cứu nghệ thuật dân gian, nghiên cứu phương ngữ; môn này có thể được áp dụng cho các lĩnh vực như phân tích diễn ngôn cũng như phê bình văn học. Đặc điểm chung của phong cách là việc sử dụng các đối thoại, bao hàm cả ngữ điệu vùng miền và các câu thành ngữ, sự phân bố của độ dài câu, vân vân. Ngoài ra, phong cách học có thể được sử dụng để xác định mối liên hệ giữa hình thức và hiệu ứng trong một loại ngôn ngữ cụ thể. Do đó, phong cách học xem xét những gì "đang diễn ra" trong ngôn ngữ. Lý luận văn học giúp các bạn “ghi điểm” trong mắt thầy cô và tăng sức hấp dẫn cho bài văn. Để đạt được điểm cao, ngoài kiến thức cơ bản, học sinh cần trang bị vững chắc kiến thức lý luận để áp dụng vào bài văn, tuy nhiên các bạn cần chọn nguồn liệu tham khảo đúng đắn và không nên đưa quá nhiều vào bài phân tích, ngoài ra ta cũng cần khéo léo đưa vào làm câu văn thêm mềm mại và đúng yêu cầu làm dung chính1. Văn chương cần phải có sự sáng tạo2. Phong cách nghệ thuật của nhà văn3. Sáng tạo trong thơ4. Để sáng tạo và lưu giữ một bài thơ hay5. Một số nhận định hay về sáng tạo nghệ thuật trong văn chương/ phong cách sáng tác của nhà văn Nguồn InternetBởi sáng tạo là quy luật đặc thù của văn học, là điều kiện tiên quyết của văn học. Theo Tề Bạch Thạch “Nghệ thuật vừa giống vừa không giống với cuộc đời. Nếu hoàn toàn giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật mị đời. Còn nếu hoàn toàn không giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật dối đời”. Nghệ thuật thường vừa hư vừa thực, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa bình thường vừa phi thường. Mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhân vật, mỗi câu chữ trong tác phẩm phải tạo được sự bất ngờ, lý thú đối với người viết về con người những năm 1930 – 1945, người đọc bắt gặp bao dáng cấy, dáng cày nhọc nhằn vất vả. Nhưng đọc “Chí Phèo” của Nam Cao, người đọc bao đời vẫn dâng lên cảm xúc đau đớn, xót xa trước sự quằn quại, quẫy đạp của con người trước Cách mạng tháng Tám khi họ buộc phải lựa chọn giữa hai con đường sống thì phải làm quỷ, không muốn làm quỷ thì phải chết. Chí Phèo đã chết giữa ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện để giữ lấy nhân cách cho bản “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, người đọc lại cảm thương trước cuộc sống mỏi mòn, leo lét của hai đứa trẻ. Chúng đang âm thầm tiến đến cái “chết” ngay khi còn đang tồn “Chữ người tử từ” của Nguyễn Tuân, độc giả chợt nhận ra “cái đẹp cứu vãn thế giới”, cái đẹp về nhân cách và tài năng của Huấn Cao đã “cảm được tấm lòng trong thiên hạ” của Quản ràng, Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân,… bằng tài năng của mình đã tạo nên những khám phá riêng đầy giá trị trên nền hiện thực xã hội. Các nhà văn ấy đã chứng minh cho quy luật Nghệ thuật không chấp nhận sự lặp lại của người khác cũng như lặp lại chính bản thân mình, không chấp nhận sự sao chép đời sống bởi “chân lý thuật chỉ thống nhất chứ không đồng nhất với chân lý đời sống”.Tác phẩm văn học là tấm gương soi chiếu hiện thực cuộc sống nhưng phải qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Chính vì vậy, hiện thực trong tác phẩm còn thực hơn hiện thực ngoài đời sống vì nó đã được nhào nặn qua bàn tay nghệ thuật của người nghệ sĩ, được thổi vào đó không chỉ hơi thở của thời đại mà cả sức sống tư tưởng và tâm hồn người viết. Hiện thực đời sống không phải chỉ là những hiện tượng, những sự kiện nằm thẳng đơ trên trang giấy mà phải hòa tan vào trong câu chữ, trở thành máu thịt của tác phẩm. Chất hiện thực làm nên sức sống cho tác phẩm và chính tài năng người nghệ sĩ đã bất tử hóa sức sống đặc trưng của văn học là hoạt động sáng tạo có tính chất cá thể. Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không tạo được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng thì đó là sự tự sát trong văn Phong cách nghệ thuật của nhà vănPhong cách chính là nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới. Đặc biệt, nó phải có tính chất thẩm mĩ, nghĩa là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ thẩm mĩ dồi dào. Phong cách không chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một nhà văn mà khi đã nở rộ thì nó còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng văn Tuocghenhev khẳng định “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác”.Nguyễn Tuân cũng từng nhấn mạnh “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy, nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình.”Cùng quan điểm ấy, nhà văn Lê ô nốp viết “Không có tiếng nói riêng, không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết “Phong cách nghệ thuật có cội nguồn tạo là sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lí, khí chất, cá tính sinh hoạt… Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời gian cứ trôi đi lặng lẽ mà vô tình nhưng thời gian cũng chính là thứ nước rửa ảnh làm nổi bật lên những tác phẩm hay, độc đáo. Có một nữ văn sĩ từng nói đại ý rằng “Sẽ không bao giờ chúng ta gặp lại mình như chiều nay”. Cũng như một triết gia từng đúc rút “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Mỗi khoảnh khắc trôi đi sẽ không bao giờ trở lại. Sẽ chẳng bao giờ ta gặp lại một Nam Cao, Thạch Lam, một Nguyễn Tuân, Xuân Diệu ,… thứ hai trên cõi đời này nữa. Bởi lẽ văn chương không bao giờ là sự lặp lại và mỗi nhà văn có một tạng riêng, một phong cách riêng.“Mỗi công dân có một dạng vân tayMỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữKhông trộn lẫn “Lê Đạt“Đừng cho tôi đề tài, hãy cho tôi đôi mắt”. Đôi mắt nhìn đời khác nhau sẽ đem lại những trang văn khác nhau và mang đậm cá tính sáng tạo. Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề về cái nhìn mà rộng hơn là vấn đề phong cách nghệ thuật của nhà văn“Phong cách nghệ thuật của nhà văn là sự độc đáo, giàu tính khám phá, phát hiện về con người và cuộc đời thể hiện qua hình thức nghệ thuật độc đáo và những phương thức phương tiện mang đậm dấu ấn sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ được thể hiện trong tác phẩm”Phong cách chính là vấn đề về cái nhìn. Mỗi nhà văn phải có cách nhìn mới mẻ, độc đáo, cách cảm thụ giàu tính khám phá và phát hiện đối với cuộc đời. Cuộc sống này có gì khác biệt đâu? Từ xưa đến nay, vẫn bốn mùa không thay đổi, vẫn là những vấn đề bức thiết mang tính quy luật về đời sống và con người. Thế nhưng, mỗi nhà văn lại nhìn thấy trong cái cũ kĩ, quen thuộc ấy những khía cạnh, những góc khuất chưa ai nhìn thấy, hoặc có thấy nhưng không để ý và giả lơ đời qua con mắt của nhà văn lúc nào cũng chứa nhiều điều bí ẩn mãi mãi không khám phá hết. Đó chính là ý thức nghệ thuật của nhà văn chân chính. Họ không bao giờ cho phép bản thân sống lặp lại, sống nhạt nhòa, viết hời hợt và nhìn đời thờ ơ hờ hững. Những người cầm bút chân chính bao giờ cũng mang đến cho người đọc mỗi lần đọc tác phẩm của họ là mỗi lần mở ra trước mắt thêm những điều khác lạ, mới mẻ Sáng tạo trong thơSáng tạo là kết quả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, hun đúc, một tiến trình cọ xát dữ dội. Sáng tạo không có nghĩa là bịa đặt. Sáng tạo nghệ thuật giống như sáng tạo cuộc sống, cần có yếu tố thẩm mỹ, tính chân thực cao, có khả năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của người chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo, một sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ. Văn chương sẽ ra sao nếu tác phẩm này là bản sao của tác phẩm kia? Nếu mỗi người nghệ sĩ đều bằng lòng với những điều có sẵn? Câu chữ mòn sáo, lời văn đơn điệu, quen nhàm? Ấy là cái chết của nghệ thuật, cái chết của người nghệ sĩ trong mỗi nhà văn. Bởi “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” Nam CaoKhi tìm đến yêu cầu sáng tạo đối với nghệ thuật, đã có người băn khoăn tự hỏi Văn học cùng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, vậy tại sao không có sự gặp gỡ, trùng lặp? Thật vậy, cuộc đời là lạch ngầm nơi dòng sông văn chương bắt nước. Thế nhưng hiện thực ấy được chảy qua bầu cảm xúc mãnh liệt của mỗi nhà thơ, nhà người nghệ sĩ là một tiểu vũ trụ, tác phẩm văn học là sự phản ánh tiểu vũ trụ ấy. Vì vậy, không có những tác phẩm “song sinh” dù tâm hồn anh cùng đồng điệu, tri kỷ với tâm hồn khác, người đọc tìm đến với văn học nói chung, thơ ca nói riêng để đắm mình trong vẻ đẹp của sự sáng tạo. Có ai yêu những áng thơ mòn cũ, quen nhàm; có ai nhớ những vần điệu nhạt nhẽo, sáo rỗng. Không đi theo con đường sáng tạo, nhà thơ sẽ chỉ còn lại một mình giữa sự thờ ơ, quên lãng của người đọc. Như thế, cuộc đời cầm bút của anh trở nên vô nghĩa. Bởi “điều còn lại đối với mỗi nhà văn chính là cái giọng nói riêng của mình”. Yêu cầu về sáng tạo ấy gợi nhắc trong lòng người đọc nỗi nhớ khôn nguôi về những nhà thơ đã dành trọn cuộc đời mình cho văn chương, nghệ nhớ tới chủ nghĩa đề tài một thuở, nhà văn, nhà thơ hát chung khúc hát, không có giọng điệu riêng, ấn tượng riêng. Chính vì vậy, những tác phẩm ấy nhanh chóng ra đi trong cảm nhận của người đọc như một làn gió mỏng manh thoáng qua. Như vậy, mỗi người nghệ sĩ trong quá trình cầm bút cần phải tạo được tiếng nói riêng, âm sắc riêng. Nó đòi hỏi anh phải miệt mài trên con đường sáng tạo, không ngừng nghỉ, không lùi bước. Một âm vang tha thiết, đặc sắc giữa cõi văn chương, ấy là sức sống của anh, là ấn tượng của anh trong lòng người đọc muôn học là một trong những hình thái nghệ thuật phản ánh đời sống. Nếu các nhà khoa học lấy mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu là nhằm đạt tới chân lý khách quan biểu thị qua những định lý, định luật mang tính khuôn mẫu, là nguyên tắc chung… thì các nhà văn lại phải tìm trong hiện thực cuộc sống bộn bề những vấn đề cá biệt mang tính bản chất và phản ánh vào trong tác phẩm thông qua những hình thức nghệ thuật riêng với quan điểm của riêng chương không thể được tạo ra theo hình thức sản xuất có tính dây chuyền, không phải là sản xuất hàng loạt. Tác phẩm văn học khi được viết ra bằng ngôn từ nghệ thuật nhất thiết phải thể hiện được cách nhìn về hiện thực riêng, những tìm tòi về nghệ thuật riêng của người nghệ sĩ. Hình ảnh cuộc sống trong tác phẩm là hình ảnh của hiện thực đã đi qua một tâm hồn, một cá thể và dấu ân cá thể in vào trong đó “càng độc đáo càng hay”. Xuân Diệu đã nói chỉ có những tâm hồn đồng điệu chứ không thể có những con người là phiên bản của nhau. Bởi vậy, sáng tác văn học, một thứ sản xuất “đặc biệt và cá thể” nhất quyết không thể tạo ra những tác phẩm giống nhau như khuôn nói riêng của nhà văn có thể hiểu là một tâm tư tình cảm riêng, một thái độ sống, cách nhìn, cách đánh giá về hiện thực cuộc sống riêng được biểu hiện trong tác phẩm bằng hình thức nghệ thuật phù hợp. Nam Cao từng nói rất thấm thía một điều *Văn chương không cần đến…. sáng tạo những gì chưa có”.Cuộc sống phong phú muôn màu muôn vẻ luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn, chứa nhiều điều bí mật, kỳ diệu cần được khám phá. Bề dày lịch sử văn học thế giới đã được tạo dựng hàng loạt những khám phá riêng ấy. Song điều đó không có nghĩa người nghệ sĩ được phép lùi bước trong sáng tạo. Viên Mai cho rằng “Làm thơ quý nhất là lật đổ cái án cũ mới hay”. Điều Viên Mai cho rằng “quý nhất” ấy thực chất cần thiết với văn học nói chung, nào phải chỉ riêng thơ ca. Chỉ có điều với tư cách là loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng phương thức trữ tình, yêu cầu “lật đổ cái án cũ” với thơ ca được đề cao hơn hết nghệ sĩ phải có một con mắt tinh sắc, một tâm hồn nhạy cảm và một tài năng đã đến độ chín để gửi vào trong tác phẩm giọng nói riêng của mình. Anh có thể học tập, tiếp thu tinh hoa trong tác phẩm của các nhà văn lớp trước nhưng phải trên cơ sở sự sáng tạo. Nói như M. Gorki “các anh hãy học tập tất cả những nhà văn có phong cách điêu luyện, nhưng các anh hãy tìm lấy nốt nhạc lời ca cho riêng mình”.Người nghệ sĩ không được phép lười biếng hay bắt chước mà phải luôn trong tâm thế tìm tòi, sáng tạo. Tất nhiên điều đó không có nghĩa nhà văn được phép tìm tòi theo hướng cực đoan, viết những điều không ai hiểu thơ trở thành thơ, để nghệ thuật trở thành nghệ thuật, người làm thơ phải luôn ý thức sáng tạo cái độc đáo. Không ai đòi hỏi khuôn mẫu cho nghệ thuật, cũng không ai dạy nhà thơ phải phản ánh thế này, xúc động thế kia. Đấy là công việc của nhà làm thơ. “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể”. Bởi vì mỗi tâm hồn là một “vương quốc riêng”, mỗi bài thơ là một đứa con tinh thần riêng của người nghệ sĩ, thật khó tìm thấy sự trùng lặp trong sáng tạo. Bởi vì “tầm thường là cái chết của nghệ thuật”, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của thơ ca. Độc đáo luôn là yêu cầu muôn đời của văn chương nghệ Để sáng tạo và lưu giữ một bài thơ hayĐối với nhà văn Để sáng tạo nên những vần thơ đích thực, để vươn tới đỉnh cao của nghệ thuật chân chính, người nghệ sĩ không những phải có tài mà cần phải có tâm, có tình cảm mãnh liệt, sống hết mình với cuộc đời, biết xúc động nhạy cảm trước mọi niềm vui nỗi buồn của con người. Đồng thời, nhà văn cũng phải biết làm lây lan tình cảm, gửi đến bạn đọc những thông điệp sâu sắc qua các phương tiện, hình thức nghệ thuật đẹp với người đọc Để đánh giá một tác phẩm, không chỉ chú ý đến hình thức ngôn từ mà phải khám phá ra chiều sâu tư tưởng, tình cảm mãnh liệt mà tác giả gửi gắm5. Một số nhận định hay về sáng tạo nghệ thuật trong văn chương/ phong cách sáng tác của nhà văn“Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…” Nguyễn Tuân“Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung.” Lê-ô-nít Lê-ô-nốp“Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.” Ivan Tuốc-ghê-nhép Nguồn Internet“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ.” Sê-khốp“Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” Raxun Gamzatốp“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.” Sách Văn học 12“Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa”. Xuân Diệu.“Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn sinh động…thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người” LLVH“Nghệ thuật không phải sự mô phỏng tự nhiên” RuskinCảm ơn thầy cô và các bạn học sinh đã đọc qua bài tham khảo, chúc mọi người có một ngày làm việc và học tập hiệu quả nhất!!! I. Quá trình văn Khái niệm quá trình văn Trào lưu văn Phong cách văn Khái niệm phong cách văn Những biểu hiện của phong cách văn Một số vấn đề lưu ý về phong cách. Quá trình văn học và phong cách văn học 1. Khái niệm quá trình văn học. – Văn học là một loại hình nghệ thuật một hình thái ý thức xã hội đặc thù luôn vận động biến chuyển. – Diễn tiến của văn học như một hệ thống với sự hình thành tồn tại thay đổi có mối quan hệ khăng khít chặt chẽ với thời kỳ lịch sử như hai mặt của một tờ giấy. – Quá trình văn học là diễn biến hình thành tồn tại phát triển, thay đổi của văn học qua các thời kỳ lịch sử. – Quá trình văn học luôn tuân theo những quy luật chung + Thứ nhất văn học gắn bó với đời sống thời đại nào văn hoá ấy những chuyển biến của lịch sử xã hội thường kéo theo những biến động trong lịch sử văn học. + Thứ hai Văn học phát triển trong sự kế thừa và cách tân văn học dân gian là cội nguồn của văn học viết người sau kế thừa giá trị của người trước tạo nên giá trị mới … 2. Trào lưu văn học. Hoạt động nổi bật của quá trình văn học là các trào lưu văn học. Trào lưu văn học là một hoạt động có tính chất lịch sử, ra đời và mất đi trong một khoảng thời gian nhất định. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp các tác giả, tác phẩm gần gũi nhau về cảm hứng tư tưởng tạo thành một dòng rộng lớn có bề thế trong đời sống văn học của một dân tộc. Văn học Phục hưng. Chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa hiện thực phê phán. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa siêu thực. * Ở Việt Nam trào lưu đầu tiên xuất khoảng từ những năm 30 của thế kỷ XX – Gồm Trào lưu lãng mạn. Trào lưu hiện thực phê phán. Trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa. II. Phong cách văn học. 1. Khái niệm phong cách văn học. + Phong cách văn học là những nét độc đáo, riêng biệt trong cách cảm nhận và tái hiện đời sống của một tác giả, được thể hiện qua các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cụa từng tác phẩm cụ thể. Yếu tố cốt lõi của phong cách là cái nhìn mang tính phát hiện, in đậm dấu ấn riêng của người nghệ sĩ “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập” M. Pru-xtơ. + Phong cách văn học còn mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Trong phong cách riêng của mỗi tác giả, người ta có thể nhận ra diện mạo tâm hồn, tính cách của một dân tộc và “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” Tô Hoài. Chẳng hạn, qua những biểu hiện của phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, có thể thấy nét riêng của tâm hồn Việt Nam và dấu ấn của một thời “dâu bể”. 2. Những biểu hiện của phong cách văn học. + Phong cách vãn học trước hết được biểu hiện qua cái nhìn và giọng điệu độc đáo, riêng biệt của tác giả. Ví dụ Cái nhìn tài hoa, có khả năng khám phá mọi đối tượng từ phương diện thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Qua cái nhìn ấy, thiên nhiên hiện lên như những công trình mĩ thuật hoàn hảo của tạo hoá; con người luôn tiềm ẩn tư chất nghệ sĩ, tài hoa, tài tử. Giọng điệu trào phúng của Nguyễn Khuyên thì hóm hỉnh, thâm trầm trong khi tiếng cười của Tú Xương lại châm biếm sâu cay, đả kích quyết liệt. + Các lớp nội dung của tác phẩm như đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật,… cũng là những yếu tố thổ hiện phong cách văn học. Nói đến Nam Cao là người ta nghĩ ngay tới một nhà văn của “những kiếp lầm than”, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở để đón nhận “những vang động của đời”. Nhắc tới Xuân Diệu là người đọc nhớ về một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với đời, luôn nồng nàn, say đắm trong tình yêu. + Phong cách văn học còn được biểu hiện qua hệ thống các phương tiện nghệ thuật mà nhà văn lựa chọn để tái hiện đời sống, từ cách dùng từ, lối cấu tạo câu đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu. Tô Hoài nổi tiếng là nhà văn giỏi miêu tả phong tục, giỏi khắc hoạ nét đẹp riêng trong cảnh vật và tính cách con người của một vùng đất. Nguyễn Tuân xứng đáng với danh hiệu bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ với khả năng sáng tạo những từ ngữ, hình ảnh mới lạ, bất ngờ; những câu văn giàu chất nhạc, chất hoạ, linh hoạt như “biết co duỗi nhịp nhàng”. + Trong biểu hiện của phong cách văn học luôn có sự hoà quyện giữa các yếu tố định hình, thống nhất và sự biến đổi đa dạng, phong phú. Và điều quan trọng nhất là phong cách phải có ý nghĩa thẩm mĩ – mang đến cho người đọc những tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ phong phú. 3. Một số vấn đề lưu ý về phong cách. + Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách gắn phong cách với cá tính nhà văn. “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Rồi sau đó, trong Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách, ông coi phong cách “phụ thuộc vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Từ đó, “dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ, Nguyên Ngọc là cây bút sử thi – lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ… Rồi Đào Thái Tôn trong Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục, khi đi tìm một cơ sở để lựa chọn thơ nôm truyền tụng của nữ sĩ đã “dùng phong cách Lưu Hương ký để xác định phong cách “thơ nôm truyền tụng” của Hồ Xuân Hương”. Ông dựa vào bài Tựa của Tốn Phong Thị để xác định phong cách thơ bà như học rộng mà thuần thục, vui mà không buông tuồng, buồn mà không đau thương, khốn mà không lo phiền, cùng mà không bức bách… ở đây chưa nói đến việc ông Đào cũng như vị Chưởng môn của ông, Hoàng Xuân Hãn chưa chứng minh được tác giả tập Lưu Hương ký và tác giả “thơ nôm truyền tụng” là một trừ cái tên trùng, và giả thử có là một đi nữa thì cũng không thể lấy phong cách của tác phẩm này để làm khuôn áp vào tác phẩm kia, bởi tuy chung một giàn, nhưng chúng lại khác giống, mà chỉ muốn nói rằng, cách minh định phong cách như vậy, cả ở thầy Đào lẫn “thầy Mạnh”, còn bị lẫn lộn giữa phong cách tác giả và phong cách tác phẩm. Các định ngữ để định nghĩa phong cách như thơ Hồ Xuân Hương vui mà không buông tuồng, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính… có thể đóng vào con người Hồ Xuân Hương, con người Hoàng Cầm cũng được, mà vào thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hoàng Cầm cũng chẳng sao. Chính sự “nhập nhằng” này làm cho các định nghĩa trên không có giá trị khái niệm hóa đã đành, mà cả giá trị thao tác. + Chính ngữ học cấu trúc của Ferdinand de Saussure đã “cứu” cho phong cách học cổ điển một “bàn thua trông thấy”. Cuộc cách mạng ngữ học lần thứ nhất này đã khiến ngôn ngữ thoát khỏi thân phận “đầy tớ” để trở thành “ông chủ” ngôn ngữ từ nay không chỉ là công cụ của tư duy, cái vỏ chứa tư tưởng, mà còn sản sinh ra tư tưởng. Các nhà thơ làm thơ không phải với các tư tưởng, mà với các con chữ. Là nhân vật chính của văn chương, ngôn ngữ cũng sẽ là nhân vật chính, kiểu một anh hùng thời đại, của phê bình. Phong cách học, nhờ thế, mở một con đường lớn vào tòa lâu đài của nghệ thuật ngôn từ. Phong cách học cổ điển, đứa trẻ song sinh dính liền của từ chương học, từ chỗ là một bộ phận của ngữ học dạy người ta viết hay trở thành phong cách học hiện đại, một lý thuyết văn chương. Phê bình phong cách học trước hết chống lại cái nhìn quy phạm của từ chương học, vượt qua sự tìm kiếm dấu ấn cá nhân nhà văn của thời đại lãng mạn để trở thành một cái nhìn khoa học. + Người đầu tiên thực hành phê bình phong cách học ở Việt Nam là Phan Ngọc với công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Theo Phan Ngọc, mỗi một ký hiệu ngôn ngữ có hai mặt, mặt thông báo và mặt biểu cảm. Phong cách học chính là thứ khoa học chỉ nghiên cứu cái mặt biểu cảm này của ngôn ngữ. Cụ thể hơn, nó nghiên cứu các kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy. Để lựa chọn, ít nhất phải có từ hai phương án trở lên. Vậy nhà nghiên cứu phải làm cái thao tác đối lập để tìm ra các phương án này. Đó là sự đối lập cái âm, cái từ, cái câu, cái kiến trúc ngôn từ, cái thể loại đã có ở văn bản, tức đã được tác giả chọn, với cái âm, cái từ, cái câu, cái kiến trúc ngôn từ, cái thể loại có thể được dùng và dùng được mà vắng mặt trong văn bản do tác giả đã không chọn. Và để xác định được phương án tác giả đã chọn là có giá trị biểu cảm tốt nhất, người phê bình phải dùng phương pháp thay thế lấy một hoặc nhiều phương án bị bỏ qua lần lượt thế vào chỗ phương án được chọn để đánh giá hiệu quả nghệ thuật của nó. Nếu hiệu quả nghệ thuật kém hơn thì sự lựa chọn của tác giả là đúng, còn không thì cái bỏ qua trở thành bỏ lỡ. + Một kiểu lựa chọn có giá trị thẩm mỹ thì, theo Phan Ngọc, trước hết nó phải được chuẩn bị về mặt ngữ cảnh, tức tạo ra một môi trường sống cho nó và của nó. Đánh giá một hiện tượng phong cách học chính là nhận xét xem nó có phù hợp với ngữ cảnh hay không. Ví như, từ chuộc động từ, bỏ tiền ra lấy lại một cái gì đó trong bài Khóc Tổng Cóc của Hồ Xuân Hương, sở dĩ nó có nghĩa thứ hai, tức trở thành một đồng âm phong cách học danh từ, con chão chuộc, một loại ếch nhái, vì nó đã được chuẩn bị bởi ngữ cảnh gồm có những từ cóc, nhái bén, nòng nọc, chão chàng. Hoặc câu Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông của Nguyễn Du đã được nhà thơ chuẩn bị ngữ cảnh cho nó thật công phu. Trước hết, câu này lấy ý từ câu Đào hoa y cựu tiếu đông phong của Thôi Hộ và nhờ tính liên văn bản ta có thể hiểu ngay. Cái ngơ ngác của Kim Trọng khi trở về vườn Thúy cũng chính là cái ngơ ngác của chàng thi sĩ đời Đường cách đây trên nghìn năm. Tuy nhiên, ở đây cây đào của Nguyễn Du còn là cây đào cụ thể, cá biệt, kẻ đã từng chứng kiến cuộc gặp gỡ đầu tiên của Kim Kiều và cũng là kẻ đã giữ hộ chiếc thoa của Thúy Kiều đã vô tình mắc gửi vào đấy. Bởi vậy, thi sĩ đời Nguyễn nói Hoa đào năm ngoái chứ không nói Hoa đào cười với gió đông như xưa là vì ông muốn chứng minh một sự thực Kim Trọng ra đi đúng một năm, nay trở về. Hơn nữa, nói hoa đào năm ngoái còn cười với gió đông năm nay là đã xóa bỏ thời gian vật lý và thay vào đó thời gian tâm lý để khẳng định sự thống nhất của sự vật với con người. + Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể. Bởi vậy, chỉ cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã chứng minh. Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách. Soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học giúp học sinh chuẩn bị bài tốt hơn trước khi đến lớp, nắm được khái niệm quá trình văn học, bước đầu có ý niệm về các trào lưu văn học tiêu biểu. Bên cạnh đó, các em cũng hiểu được khái niệm phong cách văn học, biết nhận diện những biểu hiện của phong cách văn những hướng dẫn chi tiết trả lời câu hỏi sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập 1dưới đây các em không chỉ soạn bài tốt mà còn nắm vững các kiến thức quan trọng của bài học tham khảo...Soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học ngắn gọnGợi ý trả lời các câu hỏi bài tập soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học ngắn gọn nhất trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Quá trình văn học là gì? Nêu các quy luật chung của quá trình văn học?Trả lời- Quá trình văn học diễn biến hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của văn học qua các thời Quy luật chung của quá trình văn học+ Quy luật phổ biến của văn học là gắn bó với đời sống và lịch sử+ Quy luật kế thừa và cách tân+ Quy luật bảo lưu và tiếp diễnCâu 2 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Xác định đặc trưng cơ bản của văn học Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nói vắn tắt về các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt lời* Các đặc trưng cơ bản- Văn học thời phục hưng ở châu Âu thế kỉ XV, XVI đề cao con người, giải phóng cá tính chống lại tư tưởng khắc nghiệt thời Trung Chủ nghĩa cổ điển ở Pháp thế kỉ XVII coi văn học cổ đại là hình mẫu lí tưởng, luôn đề cao lí trí, sáng tạo theo các quy phạm chặt Chủ nghĩa lãng mạn đề cao những nguyên tắc chủ quan, thường lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, cố gắng xây dựng hình tượng nhân vật sao cho phù hợp với lí trí và ước mơ của nhà Chủ nghĩa hiện thực phê phán thế kỉ XIX thiên về những nguyên tắc khách quan, chú ý chọn đề tài trong cuộc sống hiện thực, chủ trương “nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”, quan sát thực tế để sáng tạo các điển Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thế kỉ XX miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng.* Thế kỉ XX còn chứng kiến sự xuất hiện của các trào lưu hiện đại chủ nghĩa- Chủ nghĩa siêu thực ra đời 1942 ở Pháp với quan niệm thế giới trên hiện thực mới là mảnh đất sáng tạo của nghệ Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn học Mĩ la – Chủ nghĩa hiện sinh ở Châu Âu.* Ở Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945 hai trào lưu công khai xuất hiện- Trào lưu lãng mạn với phong trào Thơ Trào lưu hiện thực phê phán trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa các tác phẩm Hồ Chí Minh, Tố Hữu...Câu 3 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Thế nào là phong cách văn học?Trả lời- Phong cách văn học là diện mạo riêng biệt của sáng tác được tạo thành bởi sự thống nhất của các phương tiện biểu hiện phù hợp với một cái nhìn độc đáo có tính phát hiện đối với đời Cái nhìn này không chỉ thể hiện lập trường, thái độ đối với đời sống mà quan trọng hơn là bộc lộ sự hiểu biết và tình cảm của con người đối với cuộc 4 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học?Trả lờiNhững biểu hiện của phong cách văn học- Giọng điệu riêng biệt, cách nhìn, sự cảm thụ có tính khám phá- Sự sáng tạo về mặt nội dung- Phương thức biểu hiện, thủ pháp nghệ thuật tạo ra dấu ấn riêng- Thống nhất cốt lõi, nhưng có sự triển khai đa dạng đổi mới- Có phẩm chất thẩm mĩ cao, giàu tính nghệ dẫnSoạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học chi tiếtGợi ý trả lời các câu hỏi bài tập soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học chi tiết trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Quá trình văn học là gì? Nêu các quy luật chung của quá trình văn học?Trả lời- Quá trình văn học là diễn biến hình thành, tồn tại, phát triển, thay đổi của văn học qua các thời kì lịch Quá trình văn học luôn tuân theo những quy luật chung+ Thứ nhất Văn học gắn bó với đời sống, thời đại nào văn hoá ấy, những chuyển biến của lịch sử xã hội thường kéo theo những biến động trong lịch sử phát triển của văn học.+ Thứ hai Văn học phát triển trong sự kế thừa và cách tân. Văn học dân gian là cội nguồn của văn học viết, người sau kế thừa giá trị văn học của người trước và tạo nên giá trị mới.+ Thứ ba Văn học của một dân tộc tồn tại vận động trong sự bảo lưu và tiếp biến, là một dòng chảy của văn học thế 2 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Xác định đặc trưng cơ bản của văn học Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nói vắn tắt về các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt lời* Đặc trưng cơ bản của các trào lưu văn học+ Văn học thời Phục hưng châu Âu thế kỉ XV, XVI giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kì Trung cổ.+ Chủ nghĩa cổ điển Pháp, thế kỉ XVII coi văn hoá cổ đại là hình mẫu, lí tưởng, đề cao lí trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ.+ Chủ nghĩa lãng mạn hình thành từ các nước Tây Âu sau cách mạng Pháp 1789 đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường.+ Chủ nghĩa hiện thực phê phán châu Âu thế kỉ XIX thiên về những nguyên tắc tôn trọng khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể, tính cách phát triển hợp logic cuộc sống.+ Chủ nghĩa hiện thực XHCN ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga, miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân.* Các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt Trên thế giới+ Văn học thời Phục hưng châu Âu thế kỉ XV, XVI. Đặc trưng của trào lưu này là giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kì Trung cổ, tác giả tiêu biểu, sếch-xpia Anh, Xéc-van-tét Tây Ban Nha...+ Chủ nghĩa cổ điển Pháp, thế kỉ XVII coi văn hoá cổ đại là hình mẫu, lí tưởng, đề cao lí trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ, tác giả tiêu biểu, Cooc-nây, Mô-li-ê Pháp.+ Chủ nghĩa lãng mạn hình thành từ các nước Tây Âu sau cách mạng Pháp 1789 đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường. Tác giả tiêu biểu, V. Huy-gô Pháp, F. Sin-le Đức.+ Chủ nghĩa hiện thực phê phán châu Âu thế kỉ XIX thiên về những nguyên tắc tôn trọng khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể, tính cách phát triển hợp logic cuộc sống. Tác giả tiêu biểu, H. Ban-dắc Pháp, L. Tôn-xtôi Nga+ Chủ nghĩa hiện thực XHCN ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga, miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân. Người mở đầu M. Gor-ki Nga.+ Chủ nghĩa siêu thực Pháp - 1924 với đặc trưng quan niệm về thế giới trên hiện thực mới là mảnh đất sáng tạo của nghệ sĩ. Tác giả tiêu biểu, A. Brơ-tôn.+ Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ La - Tinh, sau Thế chiến thứ hai, coi thực tại bao gồm cả thế giới tâm linh, niềm tin tôn giáo, các huyền thoại, truyền thuyết. Tác giả tiêu biểu, G. Ở Việt Nam+ Trào lưu lãng mạn 1932 - 1945 Thơ mới, tiểu thuyết lãng mạn. Tác giả tiêu biểu Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân+ Trào lưu hiện thực phê phán gồm các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện thực phê phán. Tác giả tiêu biểu Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố...+ Trào lưu văn học hiện thực XHCN Gồm nhiều thể loại, trước và sau Cách mạng Tháng Tám, đặc biệt phát triển trong thời kì kháng chiến và xây dựng XHCN ở Miền Bắc.Bài 3 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Thế nào là phong cách văn học?Trả lời- Khái niệm phong cách văn học là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, thể hiện trong các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác Phong cách văn học nảy sinh do chính những nhu cầu của cuộc sống, vì cuộc sống luôn đòi hỏi sự xuất hiện những cái mới, những cái không lặp lại bao giờ, nảy sinh do nhu cầu của quá trình sáng tác văn Quan hệ giữa phong cách văn học và quá trình văn học quá trình văn học được đánh dấu bằng những nhà văn kiệt xuất với phong cách độc đáo của họ; phong cách in đậm dấu ấn riêng biệt của tác 4 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học?Trả lờiNhững biểu hiện của phong cách văn học– Cái nhìn, cách cảm thụ có tính khám phá và ở giọng điệu riêng biệt của nhà dụ Trước Cách mạng tháng Tám 1945, thơ Huy Cận là "một tiếng địch buồn", "một bản ngậm ngùi dài dài", còn thơ Xuân Diệu lại là "nguồn sống dào dạt", "đắm say tình yêu, đắm say cảnh trời, sống vội vàng quấn quýt ..."- Biểu hiện ở sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm, tạo thành dấu ấn riêng của tác Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tập trung thể hiện bi kịch tinh thần, nỗi đau bị tha hóa, bị xói mòn nhân phẩm con người lao động nghèo, trong xã hội vô nhân đạo. Còn nhà văn Nguyễn Tuân lại nghiêng về thể hiện vẻ đẹo tài hoa, xuất chúng của những con người một thời "vang bóng".– Hệ thống thủ pháp nghệ thuật riêng ngôn từ, kết cấu, miêu tả,…>>> Đọc thêm văn mẫu Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩSoạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học phần Luyện tậpBài 1 luyện tập trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Phân tích sự khác biệt giữa trào lưu văn học lãng mạn và trào lưu văn học hiện thực phê phán qua truyện ngắn Chữ người từ tù của Nguyễn Tuân với đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trích Số đỏ của Vũ Trọng lờiTruyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân thuộc trào lưu lãng mạn, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán. Cần phân biệt hai tác phẩm dựa vào đặc trưng của hai trào lưu- Tác phẩm lãng mạn Chữ người tử tù lấy đề tài lịch sử nhưng sáng tác thêm, xây dựng hình tượng nhân vật có vẻ đẹp phi thường. Huấn Cao có tài năng khác thường, tấm lòng trong sáng khác thường thiên lương trong sáng, và lòng can đảm cũng khác thường cuộc kì ngộ giữa nghệ sĩ Huấn Cao với công chúng ham mê nghệ thuật cai ngục và thơ lại diễn ra khác thường trong nhà tù trước ngày bị hành quyết.- Tác phẩm hiện thực phê phán đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình Xuân tóc đỏ, Tuyết, gia đình Văn Minh..., tính cách phát triển hợp logic cuộc 2 luyện tập trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Nêu những nét chính về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân và Tố lời- Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu+ Thơ trữ tình - chính trị+ In đậm dấu ấn sử thi và cảm hứng lãng mạn+ Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc- Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân+ Ngông ngạo, tài hoa, uyên bác+ Là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mĩ.+ Tự do, phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá tắt kiến thức cơ bảnI. Quá trình văn học1. Khái niệm- Quá trình văn học là diễn tiến hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của văn học qua các thời kì lịch Quá trình văn học là sự vận động của văn học trong tổng thể, bao gồm tất cả các tác phẩm văn học với chất lượng khác nhau, tất cả các hình thức tồn tại của văn học từ truyền miệng đến chép tay, in Quá trình văn học luôn tuân theo những quy luật chung+ Quy luật văn học gắn bó với đời sống "Thời đại nào văn học ấy”.+ Quy luật kế thừa và cách tân+ Qui luật bảo lưu và tiếp biến2. Trào lưu văn học- Trào lưu văn học là một hiện tượng có tính chất lịch sử, ra đời và mất đi trong một khoảng thời gian nhất định. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả tác phẩm gần gũi nhau về cảm hứng, tư tưởng tạo thành một dòng rộng lớn có bề thế trong đời sống văn hóa của một dân Các trào lưu văn học của thế giới+ Văn học thời Phục hưng giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kỳ trung cổ.+ Chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỉ XVII xem văn hóa cổ đại là hình mẫu lý tưởng, đề cao lý trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ.+ Chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ XVIII - XIX đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường.+ Chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX thiên về nguyên tắc khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa khái quát vừa cụ thể, tình cách phát triển hợp logic cuộc sống.+ Chủ nghĩa hiện thực XHCN miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, đề cao vai trò lịch sử của nhân Ở Việt Nam xuất hiện các trào lưu+ Văn học lãng mạn 1930 - 1945 Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới.+ Văn học hiện thực phê phán Ngô Tất Tố, Nam Cao…+ Văn học hiện thực xã hội Chủ nghĩa Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,…II. Phong cách văn học1. Khái niệm- Phong cách văn học là những nét riêng biệt độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống được thể hiện trong các yếu tố nội dung và hình thức của tác Quá trình văn học mang tính lịch sử nên phong cách cũng in đậm dấu ấn dân tộc và thời Biểu hiện của phong cách văn học- Giọng điệu riêng biệt, cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác Hệ thống phương thức biểu hiện, các thủ pháp kĩ thuật mang dấu ấn Thống nhất từ cốt lõi nhưng sự triển khai phải đa dạng, đổi Có phẩm chất thẩm mỹ cao, giàu tính nghệ kếtQuá trình văn học là diễn tiến hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của văn học qua các thời kì lịch sử. Hoạt động nổi bật của quá trình văn học là các trào lưu văn học. Thành tựu chính của quá trình văn học kết tinh ở các phong cách văn học độc đây là nội dung chi tiết bài soạn văn Quá trình văn học và phong cách văn học do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Hi vọng tài liệu sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các em trong quá trình tìm hiểu về các quá trình văn học, nhận biết các biểu hiện của phong cách văn học. Chúc các em học và tiếp thu bài tốt ![ĐỪNG SAO CHÉP] - Bài viết này chúng tôi chia sẻ với mong muốn giúp các bạn tham khảo, góp phần giúp cho bạn có thể để tự soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học một cách tốt nhất. "Trong cách học, phải lấy tự học làm cố" - Chỉ khi bạn TỰ LÀM mới giúp bạn HIỂU HƠN VỀ BÀI HỌC và LUÔN ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ CAO.

phong cách văn học