phân tích đoạn cuối đất nước

Pleiku có tình trạng "cò đất", môi giới bất động sản dẫn dụ khách hàng đến mua bán đất nông nghiệp. Tại tờ bản đồ số 35, hàng chục lô đất nông nghiệp, diện tích 9x59 (trên 500m2), có sổ đỏ được tách thửa phân lô. Việc tự ý làm đường bê tông, cơi nới Với trách nhiệm đối với sự phát triển kinh tế đất nước, những năm qua, PVN cũng đang tích cực thí điểm, nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng mới, giảm tỷ lệ phát thải của các nhà máy sản xuất công nghiệp, lọc hóa dầu, xung phong vào tiến trình xây dựng các Phân tích: đoạn 1 Tây tiến. Đó là nỗi nhớ thương Hoàng Cầm gửi lại mảnh đất của mình của bài thơ "Bên kia sông Đuống', là nỗi nhớ thương của những kẻ đi xa qua bài thơ "Bếp lửa" - Bằng Việt, đôi khi là nỗi nhớ của lứa đôi chỉ dám gửi qua "hương Phân tích về 4 câu thơ cuối bài thơ "quê hương" của Tế Hanh: "Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ/ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi/ Thoáng con… by Văn Mẫu 19/09/2018 63 Views Đề bài: Phân tích một đoạn thơ yêu thích trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐiềmBài làmMột nhà thơ nước ngoài đã nói: mỗi khi một nhà thơ ra đời thì dường như thế giới được tạo lại. Điều ấy có lí,bởi lẽ thế giới nghệ thuật của mỗi tác phẩm không kenapa hp oppo a3s tiba tiba mati total. Top 2 bài phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 2 bài phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa ĐiềmSố 1 Phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa ĐiềmSố 2 Phân tích Đất Nước đoạn cuối Nguyễn Khoa ĐiềmTổng kết Tổng hợp các bài mẫu phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 2 bài phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé! Số 1 Phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm Đất nước là đề tài quen thuộc nhưng chưa bao giờ cũ trong văn học Việt Nam xưa nay. Mỗi một thời kì, hình tượng đất nước lại mang sắc thái riêng, được đề cập theo một cách riêng. Đặc biệt, giai đoạn văn học kháng chiến 1945-1975, thời kì “bùng nổ” các bài thơ, bài văn xuôi về chủ đề đất nước. Trong đó, tôi ấn tượng nhất với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ cuối trong bài thơ đã làm nổi bật tư tưởng hóa thân vì Tổ quốc vĩ đại vô cùng sâu sắc “Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Cùng với lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm có lối thơ rất riêng, thuộc phong cách trữ tình – chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” 1971 thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời nhằm cổ vũ kháng chiến, thức tỉnh trí thức Sài Gòn từ bỏ tư tưởng nô dịch thực dân, hòa mình với cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Trong đoạn cuối bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã đứng ở góc độ văn hóa dân gian để thể hiện quan điểm Đất Nước là của nhân dân, của ca dao thần thoại và chính Nhân dân tô điểm, thêu dệt nên vẻ đẹp của quê hương, xứ sở. Trước hết, tác giả khái quát lại toàn bộ luận điểm “Đất nước của Nhân dân” và đưa ra suy tưởng mới mẻ về đất nước trong hai câu thơ đầu “Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Nhân dân là những người giản dị, vô danh nhưng cũng chính là những người sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước. Một trong các giá trị văn hóa đặc sắc nhất kết tinh tâm hồn, tình cảm nhân dân chính là văn hóa dân gian, biểu hiện cụ thể từ các câu ca dao, câu chuyện truyền kì, thần thoại khai sinh loài người… Hai câu thơ với hai vế song song đã đưa ra định nghĩa về đất nước vừa giản dị, vừa độc đáo. Trong 4 câu thơ tiếp, Nguyễn Khoa Điềm đã cụ thể hóa tư tưởng đất nước của ca dao thần thoại bằng việc dựng lại những tác phẩm văn hóa dân gian. Qua đó, nhà thơ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc. “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu” Đó là những câu ca dao về tình yêu và lời ru, gợi tình yêu trong sáng và sắt son. Đó là “công cầm vàng” từ câu “Cầm vàng mà lội qua sông, vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, nhắc nhở trân trọng tình nghĩa giữa con người. Đó còn là hình ảnh “Thánh Gióng” nhổ tre đánh giặc bảo vệ non sông, kiên cường cho cuộc đấu tranh giành nước và giữ nước của dân tộc. Sau khi diễn giải, Nguyễn Khoa Điềm kết thúc bằng thông điệp chính nhân dân là người đã mang lại vẻ đẹp muôn màu và kì diệu cho hồn sông hồn núi quê hương. Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” 4 câu thơ cuối mở ra không gian bát ngát, mênh mông và thơ mộng của những dòng sông quê hương. Tác giả không chỉ gợi dáng sông mà còn gợi cả hồn sông thiêng liêng của dân tộc. Mỗi dòng sông sẽ mang trong mình một đời sống văn hóa tinh thần phong phú của dân tộc mà biểu hiện cụ thể chính là “câu hát”. Sông không biết hát. Thế nhưng, hồn sông chính là những câu hát thiêng liêng. Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã đa kết hợp các đặc sắc nghệ thuật như kho tàng tri thức, sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đằm thắm…. Khổ thơ cuối cũng như toàn bộ bài thơ “Đất Nước” đã mang đến những cảm nhận không lẫn về đất nước cùng tư tưởng tiến bộ. Bài thơ không chỉ có giá trị thức tỉnh thời bấy giờ mà còn là lời nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và mai sau. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Xem thêm Top 20 bài phân tích bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 dàn ý bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 sơ đồ tư duy bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 mẫu soạn văn bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 40 mẫu mở bài bài thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 40 mẫu kết bài bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Số 2 Phân tích Đất Nước đoạn cuối Nguyễn Khoa Điềm Phần cuối đoạn trích “Đất nước” trong sách giáo khoa 12 là đỉnh cao của tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. Nhà thơ bày tỏ quan điểm về đất nước qua mỗi thời đại. Dù ở thời đại nào thì các nhà tư tưởng vẫn nhìn thấy vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân đối với đất nước. Nhân dân gánh trên đôi vai mình đất nước đi đến suốt cuộc trường chinh cũng như những công cuộc khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi. Khi dân tộc trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” được ý thức rõ ràng hơn trong các tác phẩm. Nếu như ở phần trước, nhà thơ lí giải đất nước có từ bao giờ, đất nước là gì, ở đâu thì phần này, nhà thơ lí giải ai làm ra đất nước. Xuyên suốt mạch cảm xúc chương Đất nước là tư tưởng Đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy được triển khai trên những bình diện địa lý, lịch sử, văn hóa, truyền thống, tinh thần dân tộc thú vị, độc đáo. Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện độc đáo về những cảnh quan kì thú của non sông gấm vóc đá Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên…. Không chỉ là tặng vật của thiên nhiên tạo hóa mà đã gắn với cuộc sống con người, với văn hóa, lịch sử dân tộc qua những áng ca dao, cổ tích, qua những cuộc vệ quốc vĩ đại của nhân dân. Nét đặc sắc là cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức về nhân dân. Sự hóa thân của nhân dân vào Đất nước những người vợ chờ chồng như đá Vọng Phu, cặp vợ chồng yêu nhau như hòn Trống Mái, những cái tên đất tên làng như Ông Đốc, Bà Đen…thật bình dị nhưng họ là những người làm nên Đất nước. Nhà thơ không cảm nhận những cảnh quan kì thú đơn thuần là thắng cảnh thiên nhiên mà trong đó là chiều sâu số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người đã đóng góp, hóa thân vào Đất nước. Đất nước thâm sâu tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa mộc mạc, dân dã vừa đẹp lấp lánh những chất liệu văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian thấm vào ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng trong đoạn thơ, để hình tượng nhân dân hiện diện khắp nơi trong lối sống, ao ước, khát vọng, trong suốt dọc dài đất nước hơn 4000 năm lịch sử. Đoạn thơ là sự dồn nén, hội tụ đỉnh cao của cảm xúc trữ tình – Đất nước của Nhân dân – Đất nước của ca dao, thần thoại. Nguyễn Khoa Điềm hướng người đọc nhìn về chiều sâu quá khứ bốn ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước của nhân dân. Họ sống và chết, giản dị và bình tâm, họ đã trở thành anh hùng, không ai nhớ mặt đặt tên chỉ đơn giản là những người chiến sĩ vô danh nhưng họ là những người bất tử, hóa thân cho dáng hình xứ sở. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân gian đến tột độ máu thịt, nhà thơ mới có thể có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ đến vậy trong quan niệm “Đất nước của Nhân dân”. Với cảm xúc trữ tình – chính luận vừa sâu lắng vừa giàu chất suy tư với hình thức trò chuyện tâm tình tha thiết của đôi trai gái nhà thơ gợi được cả không khí, không gian nghệ thuật đầy màu sắc sử thi nhưng lại mới mẻ trong cách cảm nhận và hình thức phóng khoáng. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Xem thêm Top 20 bài phân tích 9 câu thơ đầu bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 bài phân tích bài Đất Nước đoạn 1 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 5 bài phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 5 bài phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 2 bài phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân chi tiết nhất Tổng kết Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 2 bài phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12. Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối hay nhất hay nhất Video về Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối hay nhất Wiki về Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối hay nhất Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối hay nhất – Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối . Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, cụ thể, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học trò trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! Dàn ý Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối MỞ BÀI Hiếm có một thời kỳ văn học nào nhưng mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Non sông lại tập trung cao độ như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” Vui thế hôm nay, Chế Lan Viên với “Sao thắng lợi”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã trình bày một cách thâm thúy vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Non sông của nhân dân”. Tư tưởng đó được trình bày đậm nét qua đoạn thơ sau Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân … Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi… THÂN BÀI 1. Nói chung Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ thi sĩ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước; thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng, xúc cảm nồng nàn. “Non sông”là đoạn thơ trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971. Trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi xanh miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích nằm ở phần hai của chương V. Nội dung bao trùm cả đoạn thơ là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Ngày xưa, người ta thường quan niệm Đất Nước là của các triều đại, của vua. Trong “Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt cũng nói “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Trong “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi Viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”. Ngày nay trong thời đại Hồ Chí Minh, lúc người ta nhìn thấy sức mạnh của nhân dân, sự đóng góp máu xương của nhân dân đã làm nên Đất Nước cho nên Đất Nước phải thuộc về nhân dân và của nhân dân. 2. Nội dung cảm nhận Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định đó là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Non sông của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Thi sĩ khẳng định cứng ngắc “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định đó đã trình bày một cách tâm thành, mãnh liệt tình cảm của thi sĩ đối với dân tộc. Hơn người nào hết, thi sĩ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn người nào hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài quốc gia. Vì thế Đất Nước ko của riêng người nào nhưng mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, thi sĩ lại một lần nữa khẳng định “Non sông của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Non sông của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, thi sĩ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc tới ca dao thần thoại ta lại càng nhớ tới nhân dân, vì hơn người nào hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Nhưng quốc gia của “ca dao thần thoại” tức là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và ko phải tình cờ tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” trình bày cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ toàn cầu tâm hồn của nhân dân với tình mến thương, với sự lãng mạn cùng với ý thức sáng sủa. Đó là những tác phẩm do nhân dân thông minh, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất. Và lúc nói tới “Non sông của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú xinh xắn của văn hóa, văn học dân gian nhưng mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp ý thức của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lựa ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài Tác dụng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Tác dụng đó cùng với ý nghĩa của nó được trình bày qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Thi sĩ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai đó ko phải là ngọn gió thoáng qua, ko phải là lời của ong bướm nhưng mà là lời nói là suy nghĩ sống động. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung vững bền ko gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết mến thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao đó. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa tới nay nói tới nhân dân người ta thường nghĩ tới những phẩm chất chuyên cần chịu thương chịu khó, quật cường kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở trẻ thơ cho tới lúc trưởng thành. Ở phương diện thứ hai, Nhân dân giữ giàng và truyền lại cho ta quan niệm sống xinh xắn, thâm thúy, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ đó lấy ý từ ca dao “Cầm vàng nhưng mà lội qua sông/Vàng rơi ko tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần trị giá vật chất. Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và đấu tranh “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao trận đánh vệ quốc lớn lao. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Trận đánh đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi tới 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu ko có sự kiên trì dai sức và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc nhỏ nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian nan, mất mát hi sinh để tới ngày toàn thắng. Bốn câu thơ cuối Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân thắng lợi mọi thử thách, sáng sủa tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Nhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi… Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông ko biết tới từ bờ bến nào nhưng lúc hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ tới những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” đó vừa có ý tức là dòng sông của quê hương quốc gia nhưng vừa có ý tức là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa nhiều chủng loại “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự nhiều chủng loại và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun vén phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một quốc gia đặm đà bản sắc dân tộc. 3. Tổng kết nghệ thuật Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca rực rỡ nhưng ko lấy lại nguyên văn nhưng mà thông minh làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc thi sĩ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt Nam. KẾT BÀI Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích đã trình bày một cách rất thành công tư tưởng lớn của thời đại “Đất Nước của nhân dân”. Cảm ơn thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm đã mang tới cho ta một giọng thơ tài hoa và những câu thơ giàu tính triết lý để ta thêm hiểu, thêm yêu, thêm tin vào sức mạnh của nhân dân và tin vào tình yêu Đất Nước của chính mình Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi dòng sông Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối – Bài mẫu Non sông là đề tài thân thuộc nhưng chưa bao giờ cũ trong văn học Việt Nam xưa nay. Mỗi một thời kì, hình tượng quốc gia lại mang sắc thái riêng, được nhắc đến theo một cách riêng. Đặc thù, thời kỳ văn học kháng chiến 1945-1975, thời kì “bùng nổ” các bài thơ, bài văn xuôi về chủ đề quốc gia. Trong đó, tôi ấn tượng nhất với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ cuối trong bài thơ đã làm nổi trội tư tưởng hóa thân vì Tổ quốc lớn lao vô cùng thâm thúy “Để quốc gia này là Đất Nước của Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Nhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Cùng với lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm có lối thơ rất riêng, thuộc phong cách trữ tình – chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” 1971 thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời nhằm động viên kháng chiến, thức tỉnh trí thức Sài Gòn từ bỏ tư tưởng nô dịch thực dân, hòa mình với cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Trong đoạn cuối bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã đứng ở góc độ văn hóa dân gian để trình bày ý kiến Đất Nước là của nhân dân, của ca dao thần thoại và chính Nhân dân tô điểm, tô vẽ nên vẻ đẹp của quê hương, xứ sở. Trước hết, tác giả nói chung lại toàn thể luận điểm “Non sông của Nhân dân” và đưa ra suy tưởng mới mẻ về quốc gia trong hai câu thơ đầu “Để quốc gia này là Đất Nước của Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Nhân dân là những người giản dị, vô danh nhưng cũng chính là những người thông minh ra các trị giá văn hóa, ý thức của quốc gia. Một trong các trị giá văn hóa rực rỡ nhất kết tinh tâm hồn, tình cảm nhân dân chính là văn hóa dân gian, biểu lộ cụ thể từ các câu ca dao, câu chuyện truyền kì, thần thoại khai sinh nhân loại… Hai câu thơ với hai vế song song đã đưa ra khái niệm về quốc gia vừa giản dị, vừa lạ mắt. Trong 4 câu thơ tiếp, Nguyễn Khoa Điềm đã cụ thể hóa tư tưởng quốc gia của ca dao thần thoại bằng việc dựng lại những tác phẩm văn hóa dân gian. Qua đó, thi sĩ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc. “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài” Đó là những câu ca dao về tình yêu và lời ru, gợi tình yêu trong sáng và sắt son. Đó là “công cầm vàng” từ câu “Cầm vàng nhưng mà lội qua sông, vàng rơi ko tiếc, tiếc công cầm vàng”, nhắc nhở trân trọng tình nghĩa giữa con người. Đó còn là hình ảnh “Thánh Gióng” nhổ tre đánh giặc bảo vệ non sông, kiên cường cho cuộc đấu tranh giành nước và giữ nước của dân tộc. Sau lúc diễn giải, Nguyễn Khoa Điềm kết thúc bằng thông điệp chính nhân dân là người đã mang lại vẻ đẹp muôn màu và kì diệu cho hồn sông hồn núi quê hương. Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Nhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” 4 câu thơ cuối mở ra ko gian mênh mang, mênh mông và thơ mộng của những dòng sông quê hương. Tác giả ko chỉ gợi dáng sông nhưng mà còn gợi cả hồn sông thiêng liêng của dân tộc. Mỗi dòng sông sẽ mang trong mình một đời sống văn hóa ý thức phong phú của dân tộc nhưng mà biểu lộ cụ thể chính là “câu hát”. Sông ko biết hát. Thế nhưng, hồn sông chính là những câu hát thiêng liêng. Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã đa liên kết các rực rỡ nghệ thuật như kho tàng tri thức, thông minh chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đượm đà…. Khổ thơ cuối cũng như toàn thể bài thơ “Đất Nước” đã mang tới những cảm nhận ko lẫn về quốc gia cùng tư tưởng tiến bộ. Bài thơ ko chỉ có trị giá thức tỉnh thời bấy giờ nhưng mà còn là lời nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và tương lai. Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối do Trường TH Trảng Dài sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất! Đăng bởi Trường TH Trảng Dài Phân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 [rule_{ruleNumber}] Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước câu thơ cuối hay nhất [rule_3_plain] Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước câu thơ cuối hay nhất Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối . Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, cụ thể, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học trò trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!Xem nhanh nội dung1 Dàn ý Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối2 Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối – Bài mẫu Dàn ý Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối MỞ BÀI Hiếm có một thời kỳ văn học nào nhưng mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Non sông lại tập trung cao độ như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” Vui thế hôm nay, Chế Lan Viên với “Sao thắng lợi”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã trình bày một cách thâm thúy vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Non sông của nhân dân”. Tư tưởng đó được trình bày đậm nét qua đoạn thơ sau Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân … Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…THÂN BÀI1. Nói chung Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ thi sĩ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước; thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng, xúc cảm nồng nàn. “Non sông”là đoạn thơ trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971. Trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi xanh miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích nằm ở phần hai của chương V. Nội dung bao trùm cả đoạn thơ là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Ngày xưa, người ta thường quan niệm Đất Nước là của các triều đại, của vua. Trong “Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt cũng nói “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Trong “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi Viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”. Ngày nay trong thời đại Hồ Chí Minh, lúc người ta nhìn thấy sức mạnh của nhân dân, sự đóng góp máu xương của nhân dân đã làm nên Đất Nước cho nên Đất Nước phải thuộc về nhân dân và của nhân Nội dung cảm nhận Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định đó là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Non sông của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Thi sĩ khẳng định cứng ngắc “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định đó đã trình bày một cách tâm thành, mãnh liệt tình cảm của thi sĩ đối với dân tộc. Hơn người nào hết, thi sĩ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn người nào hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài quốc gia. Vì thế Đất Nước ko của riêng người nào nhưng mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, thi sĩ lại một lần nữa khẳng định “Non sông của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Non sông của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, thi sĩ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc tới ca dao thần thoại ta lại càng nhớ tới nhân dân, vì hơn người nào hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Nhưng quốc gia của “ca dao thần thoại” tức là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và ko phải tình cờ tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” trình bày cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ toàn cầu tâm hồn của nhân dân với tình mến thương, với sự lãng mạn cùng với ý thức sáng sủa. Đó là những tác phẩm do nhân dân thông minh, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét Và lúc nói tới “Non sông của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú xinh xắn của văn hóa, văn học dân gian nhưng mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp ý thức của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lựa ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài Tác dụng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Tác dụng đó cùng với ý nghĩa của nó được trình bày qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Thi sĩ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai đó ko phải là ngọn gió thoáng qua, ko phải là lời của ong bướm nhưng mà là lời nói là suy nghĩ sống động. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung vững bền ko gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết mến thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao đó. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa tới nay nói tới nhân dân người ta thường nghĩ tới những phẩm chất chuyên cần chịu thương chịu khó, quật cường kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở trẻ thơ cho tới lúc trưởng thành. Ở phương diện thứ hai, Nhân dân giữ giàng và truyền lại cho ta quan niệm sống xinh xắn, thâm thúy, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ đó lấy ý từ ca dao “Cầm vàng nhưng mà lội qua sông/Vàng rơi ko tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần trị giá vật chất. Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và đấu tranh “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao trận đánh vệ quốc lớn lao. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Trận đánh đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi tới 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu ko có sự kiên trì dai sức và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc nhỏ nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian nan, mất mát hi sinh để tới ngày toàn Bốn câu thơ cuối Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân thắng lợi mọi thử thách, sáng sủa tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Nhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi… Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông ko biết tới từ bờ bến nào nhưng lúc hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ tới những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” đó vừa có ý tức là dòng sông của quê hương quốc gia nhưng vừa có ý tức là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa nhiều chủng loại “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự nhiều chủng loại và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun vén phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một quốc gia đặm đà bản sắc dân Tổng kết nghệ thuật Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca rực rỡ nhưng ko lấy lại nguyên văn nhưng mà thông minh làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc thi sĩ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt BÀI Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích đã trình bày một cách rất thành công tư tưởng lớn của thời đại “Đất Nước của nhân dân”. Cảm ơn thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm đã mang tới cho ta một giọng thơ tài hoa và những câu thơ giàu tính triết lý để ta thêm hiểu, thêm yêu, thêm tin vào sức mạnh của nhân dân và tin vào tình yêu Đất Nước của chính mình Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi dòng sôngPhân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối – Bài mẫu Non sông là đề tài thân thuộc nhưng chưa bao giờ cũ trong văn học Việt Nam xưa nay. Mỗi một thời kì, hình tượng quốc gia lại mang sắc thái riêng, được nhắc đến theo một cách riêng. Đặc thù, thời kỳ văn học kháng chiến 1945-1975, thời kì “bùng nổ” các bài thơ, bài văn xuôi về chủ đề quốc gia. Trong đó, tôi ấn tượng nhất với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ cuối trong bài thơ đã làm nổi trội tư tưởng hóa thân vì Tổ quốc lớn lao vô cùng thâm thúy“Để quốc gia này là Đất Nước của Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạiDạy anh biết yêu em từ thuở trong nôiBiết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dàiÔi những dòng sông bắt nước từ đâuNhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Cùng với lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm có lối thơ rất riêng, thuộc phong cách trữ tình – chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” 1971 thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời nhằm động viên kháng chiến, thức tỉnh trí thức Sài Gòn từ bỏ tư tưởng nô dịch thực dân, hòa mình với cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Trong đoạn cuối bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã đứng ở góc độ văn hóa dân gian để trình bày ý kiến Đất Nước là của nhân dân, của ca dao thần thoại và chính Nhân dân tô điểm, tô vẽ nên vẻ đẹp của quê hương, xứ sở. Trước hết, tác giả nói chung lại toàn thể luận điểm “Non sông của Nhân dân” và đưa ra suy tưởng mới mẻ về quốc gia trong hai câu thơ đầu“Để quốc gia này là Đất Nước của Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Nhân dân là những người giản dị, vô danh nhưng cũng chính là những người thông minh ra các trị giá văn hóa, ý thức của quốc gia. Một trong các trị giá văn hóa rực rỡ nhất kết tinh tâm hồn, tình cảm nhân dân chính là văn hóa dân gian, biểu lộ cụ thể từ các câu ca dao, câu chuyện truyền kì, thần thoại khai sinh nhân loại… Hai câu thơ với hai vế song song đã đưa ra khái niệm về quốc gia vừa giản dị, vừa lạ mắt. Trong 4 câu thơ tiếp, Nguyễn Khoa Điềm đã cụ thể hóa tư tưởng quốc gia của ca dao thần thoại bằng việc dựng lại những tác phẩm văn hóa dân gian. Qua đó, thi sĩ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc.“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôiBiết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài” Đó là những câu ca dao về tình yêu và lời ru, gợi tình yêu trong sáng và sắt son. Đó là “công cầm vàng” từ câu “Cầm vàng nhưng mà lội qua sông, vàng rơi ko tiếc, tiếc công cầm vàng”, nhắc nhở trân trọng tình nghĩa giữa con người. Đó còn là hình ảnh “Thánh Gióng” nhổ tre đánh giặc bảo vệ non sông, kiên cường cho cuộc đấu tranh giành nước và giữ nước của dân tộc. Sau lúc diễn giải, Nguyễn Khoa Điềm kết thúc bằng thông điệp chính nhân dân là người đã mang lại vẻ đẹp muôn màu và kì diệu cho hồn sông hồn núi quê hương. Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuNhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” 4 câu thơ cuối mở ra ko gian mênh mang, mênh mông và thơ mộng của những dòng sông quê hương. Tác giả ko chỉ gợi dáng sông nhưng mà còn gợi cả hồn sông thiêng liêng của dân tộc. Mỗi dòng sông sẽ mang trong mình một đời sống văn hóa ý thức phong phú của dân tộc nhưng mà biểu lộ cụ thể chính là “câu hát”. Sông ko biết hát. Thế nhưng, hồn sông chính là những câu hát thiêng liêng. Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã đa liên kết các rực rỡ nghệ thuật như kho tàng tri thức, thông minh chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đượm đà…. Khổ thơ cuối cũng như toàn thể bài thơ “Đất Nước” đã mang tới những cảm nhận ko lẫn về quốc gia cùng tư tưởng tiến bộ. Bài thơ ko chỉ có trị giá thức tỉnh thời bấy giờ nhưng mà còn là lời nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và tương đây là các bài văn mẫu Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối do Trường TH Trảng Dài sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!Đăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước câu thơ cuối hay nhất [rule_2_plain] Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước câu thơ cuối hay nhất [rule_2_plain] Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước câu thơ cuối hay nhất [rule_3_plain] Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước câu thơ cuối hay nhất Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối . Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, cụ thể, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học trò trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!Xem nhanh nội dung1 Dàn ý Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối2 Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối – Bài mẫu Dàn ý Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối MỞ BÀI Hiếm có một thời kỳ văn học nào nhưng mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Non sông lại tập trung cao độ như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” Vui thế hôm nay, Chế Lan Viên với “Sao thắng lợi”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã trình bày một cách thâm thúy vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Non sông của nhân dân”. Tư tưởng đó được trình bày đậm nét qua đoạn thơ sau Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân … Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…THÂN BÀI1. Nói chung Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ thi sĩ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước; thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng, xúc cảm nồng nàn. “Non sông”là đoạn thơ trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971. Trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi xanh miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích nằm ở phần hai của chương V. Nội dung bao trùm cả đoạn thơ là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Ngày xưa, người ta thường quan niệm Đất Nước là của các triều đại, của vua. Trong “Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt cũng nói “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Trong “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi Viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”. Ngày nay trong thời đại Hồ Chí Minh, lúc người ta nhìn thấy sức mạnh của nhân dân, sự đóng góp máu xương của nhân dân đã làm nên Đất Nước cho nên Đất Nước phải thuộc về nhân dân và của nhân Nội dung cảm nhận Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định đó là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Non sông của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Thi sĩ khẳng định cứng ngắc “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định đó đã trình bày một cách tâm thành, mãnh liệt tình cảm của thi sĩ đối với dân tộc. Hơn người nào hết, thi sĩ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn người nào hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài quốc gia. Vì thế Đất Nước ko của riêng người nào nhưng mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, thi sĩ lại một lần nữa khẳng định “Non sông của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Non sông của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, thi sĩ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc tới ca dao thần thoại ta lại càng nhớ tới nhân dân, vì hơn người nào hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Nhưng quốc gia của “ca dao thần thoại” tức là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và ko phải tình cờ tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” trình bày cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ toàn cầu tâm hồn của nhân dân với tình mến thương, với sự lãng mạn cùng với ý thức sáng sủa. Đó là những tác phẩm do nhân dân thông minh, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét Và lúc nói tới “Non sông của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú xinh xắn của văn hóa, văn học dân gian nhưng mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp ý thức của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lựa ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài Tác dụng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Tác dụng đó cùng với ý nghĩa của nó được trình bày qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Thi sĩ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai đó ko phải là ngọn gió thoáng qua, ko phải là lời của ong bướm nhưng mà là lời nói là suy nghĩ sống động. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung vững bền ko gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết mến thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao đó. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa tới nay nói tới nhân dân người ta thường nghĩ tới những phẩm chất chuyên cần chịu thương chịu khó, quật cường kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở trẻ thơ cho tới lúc trưởng thành. Ở phương diện thứ hai, Nhân dân giữ giàng và truyền lại cho ta quan niệm sống xinh xắn, thâm thúy, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ đó lấy ý từ ca dao “Cầm vàng nhưng mà lội qua sông/Vàng rơi ko tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần trị giá vật chất. Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và đấu tranh “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao trận đánh vệ quốc lớn lao. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Trận đánh đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi tới 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu ko có sự kiên trì dai sức và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc nhỏ nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian nan, mất mát hi sinh để tới ngày toàn Bốn câu thơ cuối Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân thắng lợi mọi thử thách, sáng sủa tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Nhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi… Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông ko biết tới từ bờ bến nào nhưng lúc hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ tới những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” đó vừa có ý tức là dòng sông của quê hương quốc gia nhưng vừa có ý tức là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa nhiều chủng loại “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự nhiều chủng loại và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun vén phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một quốc gia đặm đà bản sắc dân Tổng kết nghệ thuật Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca rực rỡ nhưng ko lấy lại nguyên văn nhưng mà thông minh làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc thi sĩ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt BÀI Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích đã trình bày một cách rất thành công tư tưởng lớn của thời đại “Đất Nước của nhân dân”. Cảm ơn thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm đã mang tới cho ta một giọng thơ tài hoa và những câu thơ giàu tính triết lý để ta thêm hiểu, thêm yêu, thêm tin vào sức mạnh của nhân dân và tin vào tình yêu Đất Nước của chính mình Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi dòng sôngPhân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối – Bài mẫu Non sông là đề tài thân thuộc nhưng chưa bao giờ cũ trong văn học Việt Nam xưa nay. Mỗi một thời kì, hình tượng quốc gia lại mang sắc thái riêng, được nhắc đến theo một cách riêng. Đặc thù, thời kỳ văn học kháng chiến 1945-1975, thời kì “bùng nổ” các bài thơ, bài văn xuôi về chủ đề quốc gia. Trong đó, tôi ấn tượng nhất với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ cuối trong bài thơ đã làm nổi trội tư tưởng hóa thân vì Tổ quốc lớn lao vô cùng thâm thúy“Để quốc gia này là Đất Nước của Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạiDạy anh biết yêu em từ thuở trong nôiBiết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dàiÔi những dòng sông bắt nước từ đâuNhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Cùng với lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm có lối thơ rất riêng, thuộc phong cách trữ tình – chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” 1971 thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời nhằm động viên kháng chiến, thức tỉnh trí thức Sài Gòn từ bỏ tư tưởng nô dịch thực dân, hòa mình với cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Trong đoạn cuối bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã đứng ở góc độ văn hóa dân gian để trình bày ý kiến Đất Nước là của nhân dân, của ca dao thần thoại và chính Nhân dân tô điểm, tô vẽ nên vẻ đẹp của quê hương, xứ sở. Trước hết, tác giả nói chung lại toàn thể luận điểm “Non sông của Nhân dân” và đưa ra suy tưởng mới mẻ về quốc gia trong hai câu thơ đầu“Để quốc gia này là Đất Nước của Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Nhân dân là những người giản dị, vô danh nhưng cũng chính là những người thông minh ra các trị giá văn hóa, ý thức của quốc gia. Một trong các trị giá văn hóa rực rỡ nhất kết tinh tâm hồn, tình cảm nhân dân chính là văn hóa dân gian, biểu lộ cụ thể từ các câu ca dao, câu chuyện truyền kì, thần thoại khai sinh nhân loại… Hai câu thơ với hai vế song song đã đưa ra khái niệm về quốc gia vừa giản dị, vừa lạ mắt. Trong 4 câu thơ tiếp, Nguyễn Khoa Điềm đã cụ thể hóa tư tưởng quốc gia của ca dao thần thoại bằng việc dựng lại những tác phẩm văn hóa dân gian. Qua đó, thi sĩ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc.“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôiBiết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù nhưng mà ko sợ lâu dài” Đó là những câu ca dao về tình yêu và lời ru, gợi tình yêu trong sáng và sắt son. Đó là “công cầm vàng” từ câu “Cầm vàng nhưng mà lội qua sông, vàng rơi ko tiếc, tiếc công cầm vàng”, nhắc nhở trân trọng tình nghĩa giữa con người. Đó còn là hình ảnh “Thánh Gióng” nhổ tre đánh giặc bảo vệ non sông, kiên cường cho cuộc đấu tranh giành nước và giữ nước của dân tộc. Sau lúc diễn giải, Nguyễn Khoa Điềm kết thúc bằng thông điệp chính nhân dân là người đã mang lại vẻ đẹp muôn màu và kì diệu cho hồn sông hồn núi quê hương. Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuNhưng lúc về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười tới hát lúc chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” 4 câu thơ cuối mở ra ko gian mênh mang, mênh mông và thơ mộng của những dòng sông quê hương. Tác giả ko chỉ gợi dáng sông nhưng mà còn gợi cả hồn sông thiêng liêng của dân tộc. Mỗi dòng sông sẽ mang trong mình một đời sống văn hóa ý thức phong phú của dân tộc nhưng mà biểu lộ cụ thể chính là “câu hát”. Sông ko biết hát. Thế nhưng, hồn sông chính là những câu hát thiêng liêng. Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã đa liên kết các rực rỡ nghệ thuật như kho tàng tri thức, thông minh chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đượm đà…. Khổ thơ cuối cũng như toàn thể bài thơ “Đất Nước” đã mang tới những cảm nhận ko lẫn về quốc gia cùng tư tưởng tiến bộ. Bài thơ ko chỉ có trị giá thức tỉnh thời bấy giờ nhưng mà còn là lời nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và tương đây là các bài văn mẫu Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối do Trường TH Trảng Dài sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!Đăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Bạn thấy bài viết Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuốihay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuốihay nhất bên dưới để Trường TH Trảng Dài Nghĩacó thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường TH Trảng Dài Nhớ để nguồn Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuốihay nhất Phân tích đoạn cuối “Đất nước” – tác giả Nguyễn Khoa Điềm hay nhất “Đất nước” – 2 tiếng thiêng liêng mà cao cả, là sự kết tinh, hội tụ, khát vọng cũng công sức của nhân dân. Những góc nhìn mới này sẽ được thể hiện rõ nét hơn trong từng con chữ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm qua phân tích đoạn cuối “Đất nước” dưới đây. Hi vọng bạn đọc sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích cho công cuộc viết văn và học tập của mình. Nội dung bài viết1 Dàn ý phân tích đoạn cuối “Đất nước” Mở bài phân tích đoạn cuối “Đất nước” Thân bài phân tích đoạn cuối “Đất nước” Kết bài phân tích đoạn cuối “Đất nước”2 Một số dạng đề văn phân tích đoạn cuối “Đất nước” Đề bài Viết đoạn văn phân tích “Đất nước” 10 câu cuối Đề bài Viết đoạn văn nêu lên nội dung 4 câu thơ cuối bài thơ “Đất nước” Đề bài Viết đoạn văn phân tích đoạn 4 “Đất nước” Dàn ý phân tích đoạn cuối “Đất nước” Sau đây sẽ là dàn ý phân tích đoạn cuối “Đất nước” giúp bạn đọc dễ dàng viết bài phân tích chi tiết và có thể dùng làm tài liệu tham khảo để hiểu rõ hơn về nội dung tác phẩm. Dàn ý sẽ giúp các bạn chọn ra và sắp xếp những nội dung chính, các ý giúp ăn điểm trong bài phân tích. Từ đó bạn đọc có thể tránh tình trạng bị trùng lặp, thiếu ý, lạc đề,… Mở bài phân tích đoạn cuối “Đất nước” – Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Đất nước” – Nêu luận điểm khái quát về nội dung của đoạn trích + Đất nước cũng như cá nhân, là những thành tựu quá vãng lâu dài của sự cố gắng, hy sinh và tận tụy của bao thế hệ cha ông. Thấu hiểu được tư tưởng mới mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã thổi hồn vào những con chữ để dựng lên hình ảnh một “đất nước” hùng vĩ, làm nổi bật lên tư tưởng hóa thân vì Tổ quốc, cống hiến hết mình vì sự nghiệp của dân tộc qua tác phẩm “đất nước”, đặc biệt là đoạn cuối của bài. Thân bài phân tích đoạn cuối “Đất nước” – Chứng minh cho luận điểm “ Lí giải tư tưởng Đất nước của Nhân dân” + Đầu tiên, dưới nét vẽ tinh hoa của Nguyễn Khoa Điềm, ông đã khái quát lại một lần nữa những luận điểm chứng minh Đất nước là của nhân dân và đưa ra những tư tưởng mới về đất nước trong hai câu thơ đầu “Để đất nước…thần thoại”. + Tác giả tinh tế khi sử dụng nghệ thuật liệt kê những hình ảnh, di tích văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh khắp mọi miền đất nước để làm nổi bật văn hóa truyền thống mang những giá trị tinh thần hết sức sâu sắc. + Một góc nhìn sắc nét, một tư tưởng mới mẻ, có chiều rộng về địa lí, chiều sâu về lịch sử. Những dãy núi trập trùng với hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non nghiên. + Phong cảnh ấy không chỉ dừng lại ở việc được thiên nhiên ban tặng mà qua đó giúp tác giả thể hiện được cuộc đời, số phận, những đóng góp lớn lao của nhân dân, không tiếc mình mà hi sinh cho non nước. + Chính nhân dân là những con người đã dựng xây nên đất nước, đã đánh dấu cột mốc đời người lên mỗi ngọn núi, con sông “và ở đâu…. núi sông ta”. + Chưa dừng lại, ông còn cụ thể hóa luận điểm về tư tưởng đất nước của nhân dân qua những văn hóa dân gian có từ ngàn đời xưa “dạy biết yêu từ thuở còn nôi”, “biết quý công cầm vàng”, “biết trồng tre”,… + Là hình ảnh những anh hùng cứu nước đánh giặc giữ gìn gấm vóc, non sông. Là tình yêu thủy chung, son sắc, trọng tình trọng nghĩa. Tất cả những phẩm chất tốt đẹp ấy đều đã khắc sâu trong thâm tâm mỗi con người Việt Nam. + Mảnh đất này nhuộm bằng xương bằng máu, lấy máu đổi tự do, đổi lấy độc lập để cho ta mới có thể như ngày hôm nay. + Trùng trùng, điệp điệp, qua bao trắc trở, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ với mọi người rằng Để có thể tạo nên một Đất nước đẹp như tranh vẽ này, thì chính nhân dân là người đã dày công gây dựng, góp phần mang lại vẻ đẹp trù phú, mới mẻ, muôn màu cho quê hương “ôi những….sông xuôi”. + Tác giả tinh tế khi sử dụng nghệ thuật liệt kê những hình ảnh, di tích văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh khắp mọi miền đất nước,… – Chiều rộng địa lí + “Hòn trống mái”, “hòn Vọng Phu” Đây là 2 minh chứng lịch sử khẳng định tình nghĩa thủy chung, vẹn tròn son sắc của người phụ nữ Việt Nam qua bao đời nay. + “Núi Bút non Nghiên” Cảnh tượng đất trời phóng khoáng, sơn thủy liên tình gợi lên hình ảnh bút trời phê vào mây gió. + Thể hiện tinh thần hiếu học, luôn khao khát khám phá những chân trời mới mẻ của con người Việt Nam. – Chiều dài lịch sử + “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” Cha ông ta đánh giặc cứu nước, chống ngoại xâm, gìn giữ non sông gấm vóc => Tự hào truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc. + Họ gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống bằng cách truyền hạt lúa, lửa, giọng nói,… + “Đất nước này….thần thoại ca dao” Toàn bộ tư tưởng về Đất nước của tác giả đều đúc kết trong 2 câu thơ mang giá trị nhân văn, thể hiện tình yêu thương, sự trân quý công sức, coi trọng nghĩa tình, biết hi sinh vì Đất nước. + Nhân dân chính là khởi nguồn của Đất nước. Kết bài phân tích đoạn cuối “Đất nước” – Khái quát lại tác phẩm + Có thể nói rằng, chỉ vẻn vẹn 10 câu thơ cuối, linh hồn bài thơ như được tô điểm thêm sắc nét. + Với tài năng xuất chúng của mình, giọng thơ trữ tình thắm thiết, hẳn phải là người từng trải, có một lòng yêu nước nồng nàn, một tinh thần bất diệt với quê hương thì mới có thể viết nên những dòng thơ hay đến vậy. – Rút ra bài học kinh nghiệm + “Đất nước” đã mang lại giá trị to lớn về tư tưởng tiến bộ, mới mẻ. Đất nước Việt Nam không còn xa lạ nữa, mà nó trở nên gần gũi với ta hơn bao giờ hết. + Qua đây, Nguyễn Khoa Điềm gián tiếp nhen nhóm tình yêu nước trong mỗi một người dân Việt Nam hướng về nguồn cội. Dù có đi xa đi chăng nữa, thì quê hương vẫn mãi là nhà! Một số dạng đề văn phân tích đoạn cuối “Đất nước” Dưới đây là một số dạng đề văn phân tích đoạn cuối “Đất nước” đã được chọn lọc cẩn thận. Hi vọng sẽ hữu ích cho bạn đọc trong quá trình học tập và phân tích. Đề bài Viết đoạn văn phân tích “Đất nước” 10 câu cuối Dưới nét vẽ tinh hoa của Nguyễn Khoa Điềm, ông đã khái quát lại một lần nữa những luận điểm chứng minh Đất nước là của nhân dân và đưa ra những tư tưởng mới về đất nước trong hai câu thơ đầu “Để đất nước…thần thoại”. Tác giả tinh tế khi sử dụng nghệ thuật liệt kê những hình ảnh, di tích văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh khắp mọi miền đất nước để làm nổi bật văn hóa truyền thống mang những giá trị tinh thần hết sức sâu sắc. Một góc nhìn sắc nét, một tư tưởng mới mẻ, có chiều rộng về địa lí, chiều sâu về lịch sử. Những dãy núi trập trùng với hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non nghiên. Phong cảnh ấy không chỉ dừng lại ở việc được thiên nhiên ban tặng mà qua đó giúp tác giả thể hiện được cuộc đời, số phận, những đóng góp lớn lao của nhân dân, không tiếc mình mà hi sinh cho non nước. Chính nhân dân là những con người đã dựng xây nên đất nước, đã đánh dấu cột mốc đời người lên mỗi ngọn núi, con sông “và ở đâu…. núi sông ta”. Chưa dừng lại, ông còn cụ thể hóa luận điểm về tư tưởng đất nước của nhân dân qua những văn hóa dân gian có từ ngàn đời xưa “dạy biết yêu từ thuở còn nôi”, “biết quý công cầm vàng”, “biết trồng tre”,… Là hình ảnh những anh hùng cứu nước đánh giặc giữ gìn gấm vóc, non sông. Là tình yêu thủy chung, son sắc, trọng tình trọng nghĩa. Tất cả những phẩm chất tốt đẹp ấy đều đã khắc sâu trong thâm tâm mỗi con người Việt Nam. Mảnh đất này nhuộm bằng xương bằng máu, lấy máu đổi tự do, đổi lấy độc lập để cho ta mới có thể như ngày hôm nay. Trùng trùng, điệp điệp, qua bao trắc trở, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ với mọi người rằng Để có thể tạo nên một Đất nước đẹp như tranh vẽ này, thì chính nhân dân là người đã dày công gây dựng, góp phần mang lại vẻ đẹp trù phú, mới mẻ, muôn màu cho quê hương. “Đất nước” đã mang lại giá trị to lớn về tư tưởng tiến bộ, mới mẻ. Đất nước Việt Nam không còn xa lạ nữa, mà nó trở nên gần gũi với ta hơn bao giờ hết. Đề bài Viết đoạn văn nêu lên nội dung 4 câu thơ cuối bài thơ “Đất nước” Đã quá nửa đời phiêu bạt, Nguyễn Khoa Điềm đúc kết lại kinh nghiệm đời người qua 4 câu thơ cuối “Em ơi…muôn đời”. Tác giả nói lên trách nhiệm của bản thân đối với Đất nước, nơi cho ta ơn dưỡng dục, nuôi dưỡng ta lớn về tinh thần. Lời thơ như tự tác giả bày tỏ nỗi lòng của mình với những thế hệ mai sau. Đất nước không còn xa lạ nữa, mà nó trở nên gần gũi, thiêng liêng, cao cả hơn bao giờ hết. Mỗi một cá nhân là một mảnh ghép không thể thiếu đối với nước nhà. Bằng cách sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp từ “phải biết” 2 lần, “phải biết gắn bó”, “phải biết hóa thân”. Đây như một mệnh lệnh, là một trách nhiệm dành cho mỗi một con người phải biết hành động vì Đất nước, sống là cống hiến. 4 chữ “Máu xương của mình” không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ nói vậy. Đất nước dựng xây được như ngày hôm nay đều là nhờ công sức to lớn của ông cha ta đánh đổi xương máu, nhuốm màu đỏ tươi để đổi lấy độc lập, tự do cho dân tộc. Nhà thơ đã khéo léo đặt 4 chữ ấy vào bài thơ khiến người đọc không cảm thấy ghê sợ mà ngược lại càng thêm trân trọng, biết ơn cha ông ta khi xưa biết bao. Cho nên, ta “phải biết hóa thân”, dâng cả sự sống, tuổi trẻ, niềm tin, tình yêu và khát vọng cho Đất nước. Có như thế thì đất nước mới yêu thương lại chúng ta, ban cho ta những gì trù phú, màu mỡ, tươi đẹp nhất của cuộc đời. Đề bài Viết đoạn văn phân tích đoạn 4 “Đất nước” “Đất nước” – 2 tiếng thiêng liêng mà cao cả. Đó là sự kết tinh, hội tụ, khát vọng cũng công sức của nhân dân. Ta sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cũng như văn hóa, truyền thống, phong tục được thể hiện sâu sắc qua đoạn 4 bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Một góc nhìn sắc nét, một tư tưởng mới mẻ, có chiều rộng về địa lí, chiều sâu về lịch sử “Những người vợ nhớ chồng ….Hùng Vương” Những dãy núi trập trùng với hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non nghiên. Phong cảnh ấy không chỉ dừng lại ở việc được thiên nhiên ban tặng mà qua đó giúp tác giả thể hiện được cuộc đời, số phận, những đóng góp lớn lao của nhân dân, không tiếc mình mà hi sinh cho non nước. “Ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” Cha ông ta đánh giặc cứu nước, chống ngoại xâm, gìn giữ non sông gấm vóc. Tác giả tự hào truyền thống đánh giặc bảo vệ bờ cõi bằng xương máu của chính bản thân mỗi con người Việt Nam. Chính nhân dân là những con người đã dựng xây nên đất nước, đã đánh dấu cột mốc đời người lên mỗi ngọn núi, con sông “và ở đâu…. núi sông ta”. Đất nước là hiện thân, là hình ảnh của những con người, những con người vô danh làm nên hình hài, diện mạo của đất nước. Tác giả đã mạnh dạn thể hiện triết lí sâu sắc về phẩm chất hiếu học, tinh thần anh dũng hi sinh, bất khuất của dân tộc. “Đất nước” đã mang lại giá trị to lớn về tư tưởng tiến bộ, mới mẻ. Đất nước Việt Nam không còn xa lạ nữa, mà nó trở nên gần gũi với ta hơn bao giờ hết. Qua đây, Nguyễn Khoa Điềm gián tiếp nhen nhóm tình yêu nước trong mỗi một người dân Việt Nam hướng về nguồn cội, mang đến niềm tự hào cùng tinh thần trách nhiệm cao được khơi dậy trong mỗi cá nhân với non sông, gấm vóc. Trên đây là toàn bộ các bài mẫu cho đề bài liên quan đến chủ đề lập dàn ý nâng cao, phân tích chi tiết,… trong tác phẩm “Đất nước”. Qua bài phân tích đoạn cuối “Đất nước” phía trên, hi vọng bạn đọc có thể tham khảo và học tập tốt hơn trên trường. Xem thêm Phân tích khổ 1 2 “Tràng giang” – Huy Cận hay và đặc sắc nhất Phân Tích, Văn Học - Phân tích khổ 1, 2 “Tràng giang” – Huy Cận hay và đặc sắc nhất Phân tích người đàn bà ở tòa án huyện – truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” Phân tích “Câu cá mùa thu” học sinh giỏi hay và đặc sắc nhất Phân tích 4 câu đầu bài “Cảnh ngày hè” hay và ngắn gọn nhất Phân tích bài “Tiếng gà trưa” – Xuân Quỳnh chi tiết, đầy đủ nhất Phân tích nhân vật Lão Hạc chi tiết, hay và xúc động nhất Phân tích nhân vật Cám trong truyện cổ tích Tấm Cám đầy đủ nhất Hướng dẫn Cảm nhận về hai đoạn cuối của bài thơ Đất nước Đình Thi là một người có nhiều tài năng như là vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn, làm thư… Và ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành tựu xuất sắc nhưng đáng kể đến nhất đó chính là thơ ca. Trong thơ ông chứa đựng nhiều suy tư và cảm xúc về chiến tranh, về con người tình yêu đất nước. Đặc biệt ông có bài thơ đằm thắm và thiết tha khi viết về quê hương đất nước trong đau thương đã vùng lên chiến đấu và giành thắng lợi. Và đất nước là một bài như thế. Đặc biệt ở hai đoạn cuối cùng của bài thơ đã nói lên được phần nào về hình ảnh đau thương của đất nước và những người áo vải đã đứng lên đấu tranh giành chiến thắng. Đất nước là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ Đất Nước, đó là cảm xúc về mùa thu Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và cao hơn nữa đó là những cảm xúc về ca dao cho đất nước từ trong thương đau. Đây là hình ảnh về đất nước ta từ trong đau thương tiến lên đấu tranh giành được chiến thắng. Đầu tiên đó là hình ảnh đất nước ở trong đau thương, tác giả bắt đầu bằng những câu thơ có sức gợi tả cao “Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” Bọn thực dân đã làm cho những cánh đồng quê của chúng ta chảy máu, đó là máu của hoàng hôn hay là tội ác của quân giặc làm nhuốm máu của đồng bào ta. Con đường hành quân của chúng ta đầy rẩy những bẫy của kẻ thù, những đồn bốt của địch. Những đồn ấy có những hàng thép gai đâm nát cả trời chiều, nó in đậm lên cả nền trời. Rồi những đêm dài trên đường hành quân làm cho những người chiến sĩ yêu nước nhớ tới mắt người yêu của mình. Đất nước hiện lên khi đau thương nhưng từ cái đau thương ấy đất nước ta lại vùng lên để chiến đấu anh dũng hơn “Từ những năm đau thương chiến đấu Đã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn” Đất nước nhân dân ta phải chịu nhiều đắng cay tủi nhục “bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta” Đó là những tiếng khóc, tiếng than xé đau lòng, sự ngang tàng ấy đã làm cho dân ta thấy căm hờn, căm hờn đó nhân rộng ra cả một dân tộc, cả dân tộc đó đang rên xiết ở dưới mũi giày của chúng. Nhân dân ta quanh năm chỉ biết đến với lũy tre làng nhưng khi chúng đã xâm phạm tới thì những gốc lúa bờ tre ấy cũng quật lên để khởi nghĩa. Và những người áo vải đã đứng lên thành anh hùng “Ôm đất nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng” Dẫu biết rằng có thể hi sinh ngoài mặt trận nhưng mà nghĩ đến đất nước độc lập thì ý chí của những người chiến sĩ lại rực sáng lên soi sáng ngọn lửa đấu tranh. Đoạn thơ cuối chính là hình ảnh quật khởi chiến thắng của nhân dân ta. Một loạt việt Nam đau thương đứng lên khởi nghĩa có âm thanh của tiếng súng và tức nước thì vỡ bờ, người áo vải đã rũ bùn đứng dậy sáng lòa “Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” Qua đây chúng ta có thể thấy được Nguyễn Đình Thi đã mang tới cho chúng ta một hình ảnh về đất nước vô cùng tươi đẹp, đó là một đất nước trải qua nhiều thương đau nhưng cuối cùng cũng thành công, mang đến niềm hi vọng vào tương lại tươi sáng hơn. Nguồn Bài văn hay Theo Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối . Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! Dàn ý Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối MỞ BÀI Hiếm có một giai đoạn văn học nào mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Đất nước lại tập trung cao độ như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” Vui thế hôm nay, Chế Lan Viên với “Sao chiến thắng”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Đất nước của nhân dân”. Tư tưởng ấy được thể hiện đậm nét qua đoạn thơ sau Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân … Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi… THÂN BÀI 1. Khái quát Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước; thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng, cảm xúc nồng nàn. “Đất nước”là đoạn thơ trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971. Trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích nằm ở phần hai của chương V. Nội dung bao trùm cả đoạn thơ là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Ngày xưa, người ta thường quan niệm Đất Nước là của các triều đại, của vua. Trong “Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt cũng nói “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Trong “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi Viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”. Ngày nay trong thời đại Hồ Chí Minh, khi người ta nhìn thấy sức mạnh của nhân dân, sự đóng góp máu xương của nhân dân đã làm nên Đất Nước cho nên Đất Nước phải thuộc về nhân dân và của nhân dân. 2. Nội dung cảm nhận Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định ấy là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất. Và khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất. Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày toàn thắng. Bốn câu thơ cuối Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi… Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc. 3. Tổng kết nghệ thuật Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng không lấy lại nguyên văn mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt Nam. KẾT BÀI Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích đã thể hiện một cách rất thành công tư tưởng lớn của thời đại “Đất Nước của nhân dân”. Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho ta một giọng thơ tài hoa và những câu thơ giàu tính triết lý để ta thêm hiểu, thêm yêu, thêm tin vào sức mạnh của nhân dân và tin vào tình yêu Đất Nước của chính mình Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi dòng sông Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối – Bài mẫu Đất nước là đề tài quen thuộc nhưng chưa bao giờ cũ trong văn học Việt Nam xưa nay. Mỗi một thời kì, hình tượng đất nước lại mang sắc thái riêng, được đề cập theo một cách riêng. Đặc biệt, giai đoạn văn học kháng chiến 1945-1975, thời kì “bùng nổ” các bài thơ, bài văn xuôi về chủ đề đất nước. Trong đó, tôi ấn tượng nhất với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ cuối trong bài thơ đã làm nổi bật tư tưởng hóa thân vì Tổ quốc vĩ đại vô cùng sâu sắc “Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Cùng với lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm có lối thơ rất riêng, thuộc phong cách trữ tình – chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” 1971 thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời nhằm cổ vũ kháng chiến, thức tỉnh trí thức Sài Gòn từ bỏ tư tưởng nô dịch thực dân, hòa mình với cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Trong đoạn cuối bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã đứng ở góc độ văn hóa dân gian để thể hiện quan điểm Đất Nước là của nhân dân, của ca dao thần thoại và chính Nhân dân tô điểm, thêu dệt nên vẻ đẹp của quê hương, xứ sở. Trước hết, tác giả khái quát lại toàn bộ luận điểm “Đất nước của Nhân dân” và đưa ra suy tưởng mới mẻ về đất nước trong hai câu thơ đầu “Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Nhân dân là những người giản dị, vô danh nhưng cũng chính là những người sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước. Một trong các giá trị văn hóa đặc sắc nhất kết tinh tâm hồn, tình cảm nhân dân chính là văn hóa dân gian, biểu hiện cụ thể từ các câu ca dao, câu chuyện truyền kì, thần thoại khai sinh loài người… Hai câu thơ với hai vế song song đã đưa ra định nghĩa về đất nước vừa giản dị, vừa độc đáo. Trong 4 câu thơ tiếp, Nguyễn Khoa Điềm đã cụ thể hóa tư tưởng đất nước của ca dao thần thoại bằng việc dựng lại những tác phẩm văn hóa dân gian. Qua đó, nhà thơ khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc. “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu” Đó là những câu ca dao về tình yêu và lời ru, gợi tình yêu trong sáng và sắt son. Đó là “công cầm vàng” từ câu “Cầm vàng mà lội qua sông, vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, nhắc nhở trân trọng tình nghĩa giữa con người. Đó còn là hình ảnh “Thánh Gióng” nhổ tre đánh giặc bảo vệ non sông, kiên cường cho cuộc đấu tranh giành nước và giữ nước của dân tộc. Sau khi diễn giải, Nguyễn Khoa Điềm kết thúc bằng thông điệp chính nhân dân là người đã mang lại vẻ đẹp muôn màu và kì diệu cho hồn sông hồn núi quê hương. Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” 4 câu thơ cuối mở ra không gian bát ngát, mênh mông và thơ mộng của những dòng sông quê hương. Tác giả không chỉ gợi dáng sông mà còn gợi cả hồn sông thiêng liêng của dân tộc. Mỗi dòng sông sẽ mang trong mình một đời sống văn hóa tinh thần phong phú của dân tộc mà biểu hiện cụ thể chính là “câu hát”. Sông không biết hát. Thế nhưng, hồn sông chính là những câu hát thiêng liêng. Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã đa kết hợp các đặc sắc nghệ thuật như kho tàng tri thức, sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng thơ trữ tình đằm thắm…. Khổ thơ cuối cũng như toàn bộ bài thơ “Đất Nước” đã mang đến những cảm nhận không lẫn về đất nước cùng tư tưởng tiến bộ. Bài thơ không chỉ có giá trị thức tỉnh thời bấy giờ mà còn là lời nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và mai sau. Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích đoạn cuối của bài thơ Đất Nước 10 câu thơ cuối do ĐH KD & CN Hà Nội sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất! Đăng bởi ĐH KD & CN Hà Nội Chuyên mục Lớp 12, Ngữ Văn 12

phân tích đoạn cuối đất nước