phân tích đất nước đoạn 3
Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân- Mẫu 5. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giản dị, giàu chất suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã dành những trang viết đẹp nhất ca ngợi và cổ vũ ý
Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng chiến đấu với nhân dân nơi này.
Phân tích bài xích Đất nước đoạn 1 - bài xích mẫu 3. Đất nước luôn luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn vị trí và của bao triệu trái tim bé người.
Mẫu mở bài phân tích khổ thơ đầu đoạn trích Đất nước. Dân gian ta có câu: “Uống nước nhớ nguồn.” Dù ở đâu, làm gì thì mỗi chúng ta cũng phải nhớ về quê hương, về cội nguồn dân tộc. Nhưng liệu mấy ai hiểu thế nào là cội nguồn đất nước, cội nguồn dân tộc?
Phân tích đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa ĐiềmGợi ý A. DÀN BÀI 1. Mở bài Trong thơ thời chống Mĩ, chủ đề đất - Chia sẻ bài viết Phân tích đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm mới nhất
kenapa hp oppo a3s tiba tiba mati total. Bài làm Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trong ông, cũng như bao thế hệ con người Việt Nam luôn trào lên một tình yêu đất nước cao cả. Tình yêu ấy được thể hiện sâu sắc qua bài thơ “Đất nước” và đặc biệt là đoạn 3 với những nét đẹp trong truyền thống anh dũng, kiên cường. Xuyên suốt bài thơ là những tình cảm dạt dào và sâu sắc. Đất nước là hình ảnh thân thuộc trong những điều nhỏ nhặt của cuộc sống, là những phong tục tập quán lâu đời được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đất nước còn là sự kiên cường, bất khuất và lòng dũng cảm của nhân dân trong thời kì kháng chiến gian khổ và đầy hiểm nguy. Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước Câu thơ như tiếng gọi ân cần của người con trai dành cho người mình yêu thương. Nhà thơ gợi lại cho chúng ta về bốn nghìn năm đô hộ mà có lẽ cả dân tộc không thể nào quên. Đó là sự nhắc nhở chúng ta nhớ về quá khứ, về một thời kì mà cả dân tộc đã cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ vì sự độc lập, tự do đáng quý. Phân tích đoạn 3 bài thơ Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con trai, con gái bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Câu thơ nhắc đến truyền thống và nét đẹp trong tâm hồn người Việt. Đời nào cũng thế, dù là ai, trai hay gái, già hay trẻ thì họ cũng đều mang trong mình sự cần cù, chịu thương, chịu khó. Nhân dân Việt Nam, với nền văn hóa lúa nước, quanh năm ngày tháng quần quật bên ruộng đồng, đổ những giọt mồ hôi mặn chát để đem lại những hạt gạo trắng ngần, dẻo thơm. Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Những ngày đất nước còn yên bình, cả trai cả gái đều cùng nhau làm lụng vất vả. Họ cùng nhau rãi nắng dầm mưa để đem lại cuộc sống ấm no, đủ đầy. Khi giặc đến, nhiệm vụ giải phóng đất nước được đặt lên hàng đầu. Thanh niên trai tráng xông pha vào trận mạng. Họ không ngại hy sinh, đem cả thân mình để bảo vệ đất nước. Những chàng trai ấy quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Lúc này, tình yêu đất nước vượt lên trên tất cả. Họ gạt tình cảm gia đình, tình yêu nam nữ sang môt bên để toàn tâm, toàn lực phục vụ đất nước. Người đàn ông đi vào chiến trường, người phụ nữ trở về gia đình chăm sóc và nuôi dạy con cái. Họ trở thành hậu phương vững chắc để các anh yên tâm mà đánh giặc. Vậy mà, khi giặc lùng vào xóm làng, cả dân tộc như vùng lên mạnh mẽ. Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Câu nói nổi tiếng của Bác Hồ được nhà thơ khéo léo đưa vào trong sáng tác của mình. Những khi giặc đến, tinh thần yêu nước lại sục sôi như làn sóng vô cùng mạnh mẽ. Những người đàn bà dịu dàng, cần mẫn ngày nào giờ đây lại mang trong mình sức mạnh phi thường. Họ không sợ hãi, không chạy trốn mà anh dũng đứng lên để trở chống lại sự tàn ác của quân thù. Có biết bao nữ anh hùng vẫn được nhắc tên suốt chiều dài lịch sử như Võ Thị Sáu, Hai Bà Trưng…. Họ mãi songs trong lòng nhân dân với bao sự biết ơn và niềm tự hào cao cả. Và trong quá trình tìm lại tự do cho Tổ quốc, đã có biết bao người ngã xuống. Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Những họ đã làm nên đất nước Chiến tranh đã mang đến những gian nan, vất vả và cả sự hy sinh đầy thương xót. Tinh thần yêu nước dù lớn mạnh đến đâu cũng không tránh khỏi những mất mát và đổ máu. Có biết bao người con trai, con gái đã hy sinh thân mình vì trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối với nhân dân. Họ là những người không tên, không tuổi. Họ chỉ muốn dùng sức lực của mình để giải phóng đất nước chứ chưa một lần mong muốn rằng sự hy sinh của họ phải được ai nhớ đến và khắc ghi. Thế nhưng, những cái chết, những sự hy sinh thầm lặng ấy lại luôn được giữ gìn và ghi nhớ đến muôn đời sau. Chính những chàng trai, cô gái tràn đầy nhiệt huyết ấy đã dùng thân mình để làm nên đất nước. Để rồi, đất nước Việt Nam luôn được bạn bè quốc tế biết đến với những nét đẹp đáng tự hào. Họ đã làm nên những chiến thắng xẻ vang, để từ một nước nhỏ bé có thể đánh bại được bọn thực dân,, phát xít bạo tàn. Đất nước đã, đang và sẽ lớn mạnh hơn nhờ tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của bao thế hệ người Việt. Tinh thần ấy sẽ luôn là niềm tự hào của những thế hệ mai sau, là sức mạnh và động lực cho lớp trẻ noi theo để cùng nhau xây dựng đất nước. Các anh, các chị đã giành lại tự do cho Tổ quốc và nhiệm vụ của thế hệ sau là giữ gìn nền độc lập ấy và đưa đất nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa, xứng đáng với công lao và sự hy sinh cao cả của cha anh. Seen
Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi linh hồn, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do ai làm nên? “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của đất nước dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khao khát khám phá kiếm tìm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bát ngát, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, đến Nguyễn Khoa Điềm thì nhà thơ không nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm tinh thần thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng ngàn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do ai làm nên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện cái nhìn mới mẻ mà còn thể hiện cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông không phải là sự tạo tác của thiên nhiên mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa. Những quả đồi thấp bao quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Đất nước ngàn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Như vậy, khi khái quát lại ta có thể nhận ra, nếu thiên nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo linh hồn cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào đất nước. Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử không chỉ đơn thuần mang tính chất thiêng liêng, mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước. “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời gian lịch sử, vừa gợi được không gian mênh mông. Dường như để từ đó nhà thơ muốn khẳng định, lặng lẽ bền bỉ cùng thời gian, trung hậu kiên cường trong không gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế hệ. Các bài viết liên quan Đăng bởi THPT Trịnh Hoài Đức Chuyên mục Lớp 12, Ngữ Văn 12
Bằng việc phân tích đất nước đoạn 3, có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng Đất Nước. Bạn đang xem Đất nước phân tích đoạn 3Nguyễn Khoa Điềm là nhờ văn, nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nổi bật nhất trong số các tác phẩm của nhà thơ phải kể đến là Đất Nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy được ngòi bút sắc bén và thắm đượm trữ tình của Nguyễn Khoa tích đất nước đoạn 3 chi tiếtBạn đang xem Phân tích đoạn 3 đất nướcĐất Nước của Nguyễn Khoa Điềm bao la, giàu tình yêu thươngTác phẩm Đất nước là bài thơ được in trong tập trường ca Mặt đường khát vọng ở chương V. Được sáng tác vào năm 1971 ở chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến vô cùng sôi sục của quân và dân ta. Bài thơ là lời gửi gắm, thức tỉnh sâu sắc cho thế hệ trẻ miền Nam nói chúng và thế hệ trẻ sau này về sứ mệnh của bản thân đối với đất nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để có thêm những hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn về trách nhiệm, vai trò của nhân dân trong việc xây dựng đất nước“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất Nước……Làm nên Đất Nước muôn đời”Trong khi ở hai khổ đầu, nhà thơ nói đến những tình cảm thân thương, gắn kết của nhân dân, những truyền thống trong gia đình. Qua đó, ta hiểu được cội nguồn của đất nước, biết được Ai làm nên đất nước, Đất nước là gì. Thì ở đoạn 3 của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn những trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với Đất Nước. Hình ảnh của Đất nước hiện lên vừa thân thuộc lại vô cùng gần gũi. Vẻ đẹp của con người là do Đất nước kết tinh, hội tụ mà thành. Nhà thơ khẳng định trong mỗi người dân đều có một phần của Đất nước “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”. Từ đó, người đọc sẽ hiểu rõ hơn, thấm thía hơn về sự gắn bó khăng khít của mỗi người đối với đất nước rộng lớn bao la. Sự gắn kết đó thể hiện trong từng nếp sống sinh hoạt, từng hoạt động, cử chỉ vừa thân quen vừa ngập tràn tình yêu thương“Khi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm”.Ý niệm của đã được Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến trong những trong những câu thơ đầu tiên “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” ở bài này và được tiếp nối qua đoạn thứ 3. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy tình yêu Đất nước là cơ sở của tình yêu đôi lứa hay nói cách khác tình yêu đôi lứa được hình thành và phát triển từ tình yêu nước. Một tình yêu hài hòa và lớn lao. Từ đó, mọi người phải có trách nhiệm xây dựng tổ ấm của mình để góp phần vào xây dựng đất nước phồn thịnh. Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm gắn bó, kết nối cộng đồng. Cuối cùng mục đích duy nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Từ “Đất nước hài hòa nồng thắm” trong mỗi người, gắn kết với nhau thành “đất nước vẹn tròn to lớn”. Tình yêu thương chính là chìa khóa để làm nên đất nướcHình ảnh “Khi hai đứa cầm tay” còn là để nhắc nhở chúng ta về cội nguồn, nguồn gốc tổ tiên của chúng ta. Tất cả chúng ta đều chung một gốc gác – Con Rồng Cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ chúng ta phải nhớ đến cội nguồn , truyền nối tình yêu và hy vọng cho các thế hệ sau“Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang đất nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộng”Bằng việc phân tích đất nước đoạn 3, có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng Đất Nước. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…”Lời tâm tình của của người anh dành cho em, lời của chàng trai dành cho cô gái qua đoạn thơ vừa tình cảm lại thân thương gần gũi. Đất Nước bao la rộng lớn nhưng khi được đặt ngang với “máu xương của mình” thì hiện hữu một cách chân thực như nhắc nhỡ chúng ta. Ông cha ra đã lấy máu xương của mình, hy sinh, cố gắng suốt mấy nghìn năm để đổi lại sự bình yên, tự do cho Đất Nước. Đất nước là một phần của con người. Xem thêm Grigori Perelman Biography, Grigori Yakovlevich Perelman 1966Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm kế thừa và xây dựng đất nước phồn thịnhTác giả lặp lại 2 từ “phải biết” như một lời dặn dò mà mỗi chúng ta phải khắc cốt ghi tâm “biết gắn bó san sẻ”, “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm xây dựng Đất Nước, yêu dân tộc và yêu nước. Với phép so sánh bằng những hình ảnh giản dị, ta hiểu được trách nhiệm của nhân dân đối với Đất Nước. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải luôn nỗ lực, phấn đấu để xây dựng, giữ gìn và đưa đất nước đi lên ngày một vững mệnh. Kết bài
Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Hình Ảnh về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Video về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Wiki về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất – Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Non sông được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm cả tình yêu và máu thịt của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lí lẽ gang thép nhưng cũng ko kém phần trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Non sông do người nào làm ra? “Vợ nhớ chồng cũng góp núi Vọng Phu cho quốc gia. Những đôi trai gái yêu nhau góp mặt ở hòn Trống Mái. Vó ngựa Thánh Gióng đi qua, nhưng trăm ao đầm vẫn còn Chín mươi chín con voi góp phần xây dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im trong dòng sông xanh thẳm Chàng thư sinh nghèo giúp nước núi Bút, núi Nghiên. Con cóc và con gà cùng góp phần đưa Hạ Long trở thành thắng cảnh Những người góp công mang tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở khắp mọi nơi trên những cánh đồng và những ngọn đồi Ko có một hình hài, một ước muốn, một cách sống của người cha ”. Điểm qua, có thể thấy ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày một cái nhìn rất mới và lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về những danh lam thắng cảnh đẹp, hoang vu của dân tộc, là mảnh đất, là đề tài nhưng mà bao người cày cuốc, bao bước chân khát khao khám phá. Nhưng ở họ, người đọc chỉ thấy được vẻ đẹp rộng lớn, trẻ trung của tấm gấm nhưng mà chưa thấy được cái hồn sâu lắng đằng sau từng mảnh đất, cảnh vật. Tuy nhiên, tới với Nguyễn Khoa Điềm, thi sĩ ko nhìn danh lam thắng cảnh ở tâm hồn bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào tận xương tủy tâm hồn để thấy được những huyền thoại, những trầm tích văn hoá, lịch sử khắc sâu trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng. , thấm nhuần ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn liền với phong tục, văn hóa hay với những câu chuyện về con người và lịch sử được lưu giữ từ nghìn đời nay. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Non sông do người nào làm ra, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày một dung mạo mới nhưng mà còn trình bày một cách cảm nhận mới. Thế núi hình sông ko phải là tạo hóa của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời của mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân để tạo nên hình hài, khát vọng về lối sống của người cha. Sự tích về hòn Vọng Phu ko chỉ gợi lên cảnh chia ly, hy vọng dài dằng dặc trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình yêu chung tình của những người vợ nhớ chồng. Cách đặt tên Hòn Trống, Hòn Mái của dân gian qua con mắt của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của sự sinh sôi, nảy nở cho tình yêu lứa đôi vĩnh cửu. Những ngọn đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các Vua Hùng, qua con mắt của nhân dân, đã trở thành chứng tích của 99 con voi được quy tụ về thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng lòng hướng về quốc gia. thống nhât. Núi Bút, Non Nghiên là hình ảnh quốc gia nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, là hình ảnh quốc gia với gươm giáo trên lưng, bàn tay mềm mại cầm bút hoa. Tương tự, nhìn một cách tổng thể, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nếu tự nhiên tạo nên núi sông có hình thù thì chính con người, con người mới tạo nên vong linh cho mỗi ngọn núi, con sông. Xuất phát từ quan niệm Phật nhập thế, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh rằng nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Bài thơ mở đầu bằng những truyền thuyết trong dân gian, nhưng bay bổng trên toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của lối tư duy hiện đại. Núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên tinh khiết, những câu chuyện văn hóa, lịch sử ko thuần tuý thiêng liêng nhưng mà tất cả dưới con mắt của Nguyễn Khoa Điềm đều được xem như một phần tâm hồn. Máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng, cảm động về sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm nên quốc gia. “Ôi Non sông, sau bốn nghìn năm, tôi có thể nhìn thấy nó ở mọi nơi tôi tới Những cuộc đời đã biến núi sông của chúng ta… ” Cái tài hoa và sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa ko gian rộng lớn. Hình như từ đó thi sĩ muốn khẳng định rằng, lặng lẽ trường tồn với thời kì, trung kiên trung thành với ko gian chính là lẽ sống của nhân dân. Bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lên về sự đóng góp to lớn và nhập thế nhưng mà nhân dân đã góp phần tạo nên văn hóa, lịch sử, là hồn cốt của dân tộc. Từ đó giúp gắn kết tâm hồn con người từ bao đời nay. Những bài viết liên quan Đăng bởi Trường Trường TH Trảng Dài Phân mục Văn lớp 12, Ngữ văn 12 [rule_{ruleNumber}] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Bạn thấy bài viết Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất bên dưới để Trường TH Trảng Dài Nghĩacó thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường TH Trảng Dài Nhớ để nguồn Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất
Nguyễn Khoa Điềm là nhờ văn, nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nổi bật nhất trong số các tác phẩm của nhà thơ phải kể đến là Đất Nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy được ngòi bút sắc bén và thắm đượm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm. Phân tích đất nước đoạn 3 chi tiết Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm bao la, giàu tình yêu thươngTác phẩm Đất nước là bài thơ được in trong tập trường ca Mặt đường khát vọng ở chương V. Được sáng tác vào năm 1971 ở chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến vô cùng sôi sục của quân và dân ta. Bài thơ là lời gửi gắm, thức tỉnh sâu sắc cho thế hệ trẻ miền Nam nói chúng và thế hệ trẻ sau này về sứ mệnh của bản thân đối với đất tích đất nước đoạn 3để có thêm những hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn về trách nhiệm, vai trò của nhân dân trong việc xây dựng đất nước“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất Nước……Làm nên Đất Nước muôn đời”Trong khi ở hai khổ đầu, nhà thơ nói đến những tình cảm thân thương, gắn kết của nhân dân, những truyền thống trong gia đình. Qua đó, ta hiểu được cội nguồn của đất nước, biết được Ai làm nên đất nước, Đất nước là gì. Thì ở đoạn 3 của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn những trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với Đất Nước. Hình ảnh của Đất nước hiện lên vừa thân thuộc lại vô cùng gần gũi. Vẻ đẹp của con người là do Đất nước kết tinh, hội tụ mà thành. Nhà thơ khẳng định trong mỗi người dân đều có một phần của Đất nước “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”. Từ đó, người đọc sẽ hiểu rõ hơn, thấm thía hơn về sự gắn bó khăng khít của mỗi người đối với đất nước rộng lớn bao la. Sự gắn kết đó thể hiện trong từng nếp sống sinh hoạt, từng hoạt động, cử chỉ vừa thân quen vừa ngập tràn tình yêu thương“Khi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm”.Ý niệm của đã được Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến trong những trong những câu thơ đầu tiên “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” ở bài này và được tiếp nối qua đoạn thứ tích đất nước đoạn 3để thấy tình yêu Đất nước là cơ sở của tình yêu đôi lứa hay nói cách khác tình yêu đôi lứa được hình thành và phát triển từ tình yêu nước. Một tình yêu hài hòa và lớn lao. Từ đó, mọi người phải có trách nhiệm xây dựng tổ ấm của mình để góp phần vào xây dựng đất nước phồn thịnh. Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm gắn bó, kết nối cộng đồng. Cuối cùng mục đích duy nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Từ “Đất nước hài hòa nồng thắm” trong mỗi người, gắn kết với nhau thành “đất nước vẹn tròn to lớn”. Tình yêu thương chính là chìa khóa để làm nên đất nướcHình ảnh “Khi hai đứa cầm tay” còn là để nhắc nhở chúng ta về cội nguồn, nguồn gốc tổ tiên của chúng ta. Tất cả chúng ta đều chung một gốc gác – Con Rồng Cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ chúng ta phải nhớ đến cội nguồn , truyền nối tình yêu và hy vọng cho các thế hệ sau“Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang đất nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộng”Bằng việcphân tích đất nước đoạn 3, có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng Đất Nước. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…”Lời tâm tình của của người anh dành cho em, lời của chàng trai dành cho cô gái qua đoạn thơ vừa tình cảm lại thân thương gần gũi. Đất Nước bao la rộng lớn nhưng khi được đặt ngang với “máu xương của mình” thì hiện hữu một cách chân thực như nhắc nhỡ chúng ta. Ông cha ra đã lấy máu xương của mình, hy sinh, cố gắng suốt mấy nghìn năm để đổi lại sự bình yên, tự do cho Đất Nước. Đất nước là một phần của con người. Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm kế thừa và xây dựng đất nước phồn thịnhTác giả lặp lại 2 từ “phải biết” như một lời dặn dò mà mỗi chúng ta phải khắc cốt ghi tâm “biết gắn bó san sẻ”, “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm xây dựng Đất Nước, yêu dân tộc và yêu nước. Với phép so sánh bằng những hình ảnh giản dị, ta hiểu được trách nhiệm của nhân dân đối với Đất Nước. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải luôn nỗ lực, phấn đấu để xây dựng, giữ gìn và đưa đất nước đi lên ngày một vững mệnh. Kết bài Quaphân tích đất nước đoạn 3ta hiểu được rằng những người con đất Việt với tình yêu dân tộc nồng nàn chính là yếu tố làm nên Đất Nước. Trong mỗi chúng ta, Đất nước chính là lòng yêu thương và cũng là sứ mệnh phải thực hiện từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người đều cần làm tròn trách nhiệm này thông qua những tình cảm nhỏ bé giữa con người với con người. Con người yêu thương nhau và yêu Đất Nước.
phân tích đất nước đoạn 3